5 đề xuất hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư
Theo cơ quan này, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đã có sự chuyển biến kể từ khi có Luật Đầu tư 2005. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là về cơ bản, thẩm quyền quyết định ưu đãi đầu tư đang tiếp tục được phân cấp mạnh hơn về phía chính quyền địa phương.
Ảnh minh họa |
Trước khi có Luật Đầu tư 2005, ở cấp Trung ương, thẩm quyền quyết định các chính sách ưu đãi đầu tư thuộc về Chính phủ. Tuy nhiên, do có sự phân cấp về địa phương nên xuất hiện hiện tượng tranh nhau “xé rào” trong ưu đãi đầu tư, tạo nên cuộc đua xuống đáy giữa các địa phương, ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác.
Sau Luật Đầu tư 2005 không còn tình trạng các địa phương ưu đãi đầu tư tràn lan bằng biện pháp thuế. Tuy nhiên, các địa phương vẫn có thẩm quyền ban hành chính sách ưu đãi đầu tư bằng việc cụ thể hoá chính sách của trung ương và thường sẽ áp dụng các biện pháp như hỗ trợ chi phí, hạ tầng, thủ tục hành chính…
Trước thực trạng đó, VCCI đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về ưu đãi đầu tư trong thời gian tới cần được thực hiện theo hướng thống nhất giữa trung ương và địa phương.
Thứ nhất, chính sách kinh tế ngành cần đi trước chính sách ưu đãi đầu tư. Theo VCCI, đối với các doanh nghiệp đầu tư trong một ngành, lĩnh vực thì các quy định quản lý ngành sẽ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hơn là các quy định về ưu đãi. Do đó, trước tiên cần tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua việc dỡ bỏ rào cản gia nhập ngành, minh bạch hoá thông tin chính sách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, cải thiện cơ sở hạ tầng trước khi phải sử dụng đến biện pháp ưu đãi đầu tư.
Thứ hai, khi xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư thì cần đánh giá cả tác động tích cực và tiêu cực. Trong thời gian qua, có tình trạng các cơ quan đề xuất chính sách ưu đãi chỉ tập trung vào việc trình bày những tác động tích cực như giúp phát triển kinh tế địa phương, hoặc tăng vốn đầu tư vào một ngành nghề cụ thể. Trong khi đó, các tác động tiêu cực về ngân sách, về giảm đầu tư ở nơi khác hoặc tác động tiêu cực về môi trường, cạnh tranh thì thường không được đề cập.
Thứ ba, tính minh bạch về điều kiện và thủ tục hưởng ưu đãi. Thời gian qua có tình trạng một số chính sách ưu đãi được ban hành nhưng không có quy định hoặc quy định không minh bạch về điều kiện và thủ tục để được hưởng ưu đãi. Thậm chí, có trường hợp chính sách trao quyền tuỳ nghi quá lớn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, tạo cơ hội cho tham nhũng tiêu cực, doanh nghiệp phải chung chi để được xác nhận đủ điều kiện được ưu đãi. Kết quả là chính sách ưu đãi không phát huy được tác dụng, làm nản lòng những doanh nghiệp muốn đầu tư vào những lĩnh vực được khuyến khích.
Thứ tư, cần xác định thời hạn đối tượng được hưởng các chính sách ưu đãi. Việc ưu đãi có thể được coi là biện pháp “mồi”, nhằm tạo lập, thu hút nhà đầu tư trong một giai đoạn nhất định. Sau một thời gian, nếu lĩnh vực, địa bàn đó đã có làn sóng đầu tư tốt, thì cần giảm bớt chính sách ưu đãi; nếu lĩnh vực, địa bàn đó không có nhiều nhà đầu tư thì tức là biện pháp ưu đãi không hiệu quả, cần được nâng cấp hoặc điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Chính vì thế, nên đưa ra một nguyên tắc là các quy định về ưu đãi đầu tư chỉ có hiệu lực trong tối đa 5 năm kể từ khi ban hành. Sau 5 năm, biện pháp ưu đãi đầu tư phải được gia hạn, hoặc nếu không sẽ tự động hết hiệu lực, không áp dụng cho các dự án mới nữa.
Thứ năm, cần gắn việc xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư có sử dụng ngân sách với quá trình xây dựng kế hoạch, dự toán ngân sách. Hiện nay có tình trạng chính sách ưu đãi đầu tư dàn trải, lãng phí, gây xói mòn cơ sở thu ngân sách, dẫn đến việc Nhà nước buộc phải tăng thu từ những nguồn khác.
Vì vậy, có thể tính đến giải pháp đưa những nội dung chung, mang tính nguyên tắc, về tổng chi/giảm thu cho ưu đãi đầu tư vào trong dự toán ngân sách. Các chính sách ưu đãi cụ thể không được phép vượt quá nguyên tắc và tổng chi/giảm thu đó.