Chính phủ đề xuất tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2%
Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà tham dự và phát biểu tại phiên họp |
Đánh giá về một số khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực ngân hàng về chính sách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, đến cuối tháng 7/2023, số tiền hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh đạt khoảng 681 tỷ đồng, tương đương 1,7% nguồn lực bố trí để thực hiện chính sách (40.000 tỷ đồng), trong đó riêng 7 tháng năm 2023 đạt khoảng 547 tỷ đồng. Doanh số hỗ trợ lãi suất đạt gần 155.000 tỷ đồng, dư nợ hỗ trợ lãi suất đạt hơn 56.000 tỷ đồng cho gần 2.100 khách hàng.
Chính phủ đánh giá chính sách có kết quả triển khai thấp, dự kiến đến hết năm 2023 sẽ chỉ giải ngân được khoảng 1.408 tỷ đồng, còn khoảng 38.592 tỷ đồng không sử dụng hết (năm 2022 khoảng 15.900 tỷ đồng, năm 2023 khoảng 22.690 tỷ đồng). Trong số các ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất, chỉ khoảng 13% khách hàng đáp ứng được điều kiện thụ hưởng chính sách, trong đó 67% khách hàng phản hồi không có nhu cầu được hỗ trợ lãi suất.
Nguyên nhân do khách hàng đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách chủ yếu do tâm lý e ngại công tác thanh tra, kiểm tra (đặc biệt là doanh nghiệp), cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất (phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Đồng thời, khách hàng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất khi số tiền này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông.
Bên cạnh đó là khó khăn trong việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện “có khả năng phục hồi” theo quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15. Khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ nhưng cũng không thể khẳng định có khả năng phục hồi (thường thể hiện thông qua các tiêu chí định lượng như doanh thu/sản lượng/lợi nhuận tăng hoặc các tiêu chí định tính như diễn biến, chiều hướng kinh doanh). Trường hợp khách hàng được hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình sản xuất kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí nêu trên làm cho NHTM và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá trục lợi chính sách. Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch bệnh cao hơn hiện tại nên khó để đánh giá việc đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
Trong thời gian đầu triển khai chính sách (năm 2022), tình hình kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các đối tượng ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất nói riêng có nhiều chuyển biến so với thời điểm ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường sau dịch Covid-19 dẫn đến nhu cầu được hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách (thay vì nhu cầu hỗ trợ lãi suất thì có nhu cầu được hỗ trợ trực tiếp hoặc giảm thuế, phí, lệ phí).
Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các NHTM, tuy nhiên không đăng ký hộ kinh doanh nên không thuộc đối tượng hỗ trợ. Một số khách hàng có năng lực tài chính, lịch sử tín dụng tốt, được NHTM cho vay với lãi suất ưu đãi nên lựa chọn không thụ hưởng chính sách do tự đánh giá đã được cho vay với lãi suất phù hợp theo các chương trình ưu đãi của NHTM...
Sau khi phân tích tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, để phát huy tối đa hiệu quả nguồn lực đã được Quốc hội thông qua, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh nguồn lực thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (trong 38,4 nghìn tỷ đồng hạn mức bảo lãnh Chính phủ được Quốc hội quyết nghị). Cụ thể, giảm 16.100 tỷ đồng kế hoạch vốn bố trí để thực hiện 4 chính sách cho vay ưu đãi, trong đó: Giảm 6.000 tỷ đồng kế hoạch vốn thực hiện chính sách cho vay nhà ở; giảm 2.160 tỷ đồng kế hoạch vốn thực hiện chính sách cho vay học sinh, sinh viên mua máy tính và thiết bị học tập trực tuyến; giảm 6.700 tỷ đồng kế hoạch vốn thực hiện cho vay phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; giảm 1.240 tỷ đồng cho vay các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập.
Trong khi đó, tăng 16.100 tỷ đồng kế hoạch vốn bố trí để thực hiện chính sách cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, nâng tổng số kế hoạch vốn bố trí để thực hiện chính sách này là 26.100 tỷ đồng.
Tổng số vốn thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội vẫn giữ nguyên theo hạn mức được Quốc hội cho phép (38.400 tỷ đồng).
Chính phủ sẽ chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương triển khai, phấn đấu giải ngân hết số vốn được bổ sung nhằm phát huy cao nhất hiệu quả nguồn lực chính sách đã được Quốc hội thông qua.
Về việc triển khai chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, do nguồn lực 40 nghìn tỷ đồng là hạn mức tối đa được Quốc hội giao, hiện chưa huy động, để bảo đảm việc thực hiện phù hợp với tình hình thực tế, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến để báo cáo Quốc hội cho phép tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh như đã được Quốc hội quyết nghị tại Nghị quyết số 43/2022/QH15.
Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo NHNN phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện chính sách với quyết tâm cao nhất, tiếp tục truyền thông, tuyên truyền đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất để tạo điều kiện thụ hưởng chính sách cho các đối tượng quan tâm. Đồng thời, khuyến khích các NHTM dành nguồn lực để hỗ trợ giảm lãi suất cho khách hàng, góp phần giảm bớt gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ.
Đối với số vốn không giải ngân hết của chính sách sau khi kết thúc thời gian giải ngân kế hoạch năm 2022 và năm 2023, trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn, không huy động nguồn lực (dự kiến khoảng 38.592 tỷ đồng), đồng thời không làm tăng bội chi tương ứng với số vốn này.
Về việc kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến để Chính phủ trình Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn của Chương trình đến hết năm 2025.
Thảo luận tại phiên họp, đa số ý kiến đồng tình với thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, đồng thời đánh giá cao những nỗ lực và sự chỉ đạo quyết liệt, tích cực, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, vai trò đầu mối của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như sự tham gia vào cuộc của các bộ, ngành, cơ quan Trung ương có liên quan, UBND các tỉnh, thành phố, đã ban hành đầy đủ 17/17 văn bản theo thẩm quyền để cụ thể hóa các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết số 43, tổ chức phối hợp, thực hiện và hoàn thành khối lượng lớn công việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu và tiến độ đề ra.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng việc triển khai ban hành một số văn bản hướng dẫn, chuẩn bị các dự án chưa kịp thời, như trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân bổ danh mục các dự án quá chậm; chưa quyết liệt trong việc hoàn thiện, chủ trương đầu tư, chưa bảo đảm tính chặt chẽ, sát thực trong xác định danh mục các dự án, có nhiều điều chỉnh so với danh mục đã báo cáo Quốc hội, cho thấy công tác chuẩn bị Tờ trình để Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết chưa bảo đảm kỹ lưỡng và còn mang tính ước lệ. Một số chính sách có nguồn lực lớn nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế, chưa đạt yêu cầu đề ra.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, Báo cáo của Chính phủ đã đánh giá về những tồn tại, hạn chế, tuy nhiên đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ, làm rõ trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân trong việc không hoặc chậm triển khai chính sách, kết quả thấp, không khả thi và đánh giá tác động tới kết quả, hiệu quả triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Về việc điều chỉnh nguồn lực thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội, theo ông Vũ Hồng Thanh, việc điều chỉnh cơ cấu của chính sách hỗ trợ không vượt quá phạm vi hạn mức được Quốc hội quyết nghị thuộc thẩm quyền trong điều hành thực hiện của Chính phủ. Vì vậy, đề nghị Chính phủ thực hiện việc điều chỉnh linh hoạt theo quy định tại Khoản 6 Điều 6 Nghị quyết số 43/2022/QH15. Đồng thời, cần lưu ý thời hạn thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 đến hết ngày 31/12/2023. Việc thực hiện điều chỉnh cần bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tế giải ngân nhiệm vụ và hiệu quả chính sách của Chương trình.
Về việc triển khai chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, tại Nghị quyết số 43/2022/QH15, Quốc hội đã quy định thời hạn thực hiện các chính sách của Chương trình đến hết 31/12/2023. Do đó, Uỷ ban Kinh tế và các ý kiến tham dự phiên họp đề nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện các chính sách nêu trên theo đúng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 và khi kết thúc thời gian giải ngân của Chương trình thì hủy dự toán, kế hoạch vốn theo đúng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Luật Ngân sách Nhà nước...