Đầu tư sao với ngân hàng, bất động sản?
Ảnh minh họa |
Nhìn lại quá trình giao dịch của cổ phiếu ngành Ngân hàng (NH) trong hai năm 2013 và 2014 vừa qua, phần lớn cổ phiếu ngành này đi ngang hoặc giảm. Chỉ gần đây mới có những phục hồi ấn tượng với kỳ vọng vào những kết quả ban đầu của quá trình tái cấu trúc.
Theo lý giải của các chuyên gia, nhóm cổ phiếu NH vẫn được nhà đầu tư (NĐT) mua vào vì kết quả kinh doanh (KQKD) quý I/2015 tăng trưởng tích cực. Dự báo dòng cổ phiếu này sẽ tiếp tục khả quan trong quý II năm nay, trở thành trụ đỡ chính cho các phiên giao dịch. Cũng theo giới phân tích, lợi nhuận của ngành năm 2015 phụ thuộc khá nhiều vào kết quả xử lý nợ xấu, đặc biệt là các nợ vay đảm bảo bằng bất động sản (BĐS) trong tương quan với sự trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ.
Đánh giá về vấn đề nợ xấu của NH, một chuyên viên phân tích của VDSC cho biết, tính đến cuối quý III/2014, nợ xấu BĐS được công bố vào khoảng 4%, chiếm gần 50% tổng nợ xấu toàn hệ thống. Việc cải thiện khâu tiêu thụ là nhân tố tiên quyết giúp DN BĐS có dòng tiền dương để trả nợ. Kỳ vọng với nhiều chính sách hỗ trợ, sự hồi phục của thị trường BĐS sẽ giúp các NHTM đẩy mạnh tiến độ giải quyết nợ xấu. Ngoài ra, giới phân tích có một quan điểm chung khi cho rằng xu hướng tăng thu phí dịch vụ cũng sẽ góp phần ngày càng tăng thu nhập ngoài lãi của khối NH.
Như vậy, thời điểm khó khăn nhất của các NH đã qua, đây là cơ hội cho NĐT quan tâm đến cổ phiếu NH có thể kỳ vọng vào việc thu lãi. Song để hạn chế rủi ro, giới phân tích cũng khuyên rằng cổ phiếu ngành này sẽ không tăng liên tục phi mã mà sẽ luôn có những khoảng dừng và điều chỉnh. Quan ngại về vấn đề minh bạch và chất lượng tài sản sẽ luôn tạo ra “cận trên” đối với giá của cổ phiếu NH, chuyên viên phân tích chứng khoán cho rằng: cần chấp nhận mức sinh lời vừa phải, đặc biệt là với giao dịch cổ phiếu NH ngắn hạn. Đối với NĐT dài hạn thì chỉ nên mua vào trong những phiên điều chỉnh khi các chỉ số định giá ở vào mức hấp dẫn. Lựa chọn hàng đầu của NĐT trong nhóm cổ phiếu NH năm 2015 là VCB, MBB và tiếp theo là ACB, BID.
Một cổ phiếu cũng mang tính đầu tư chu kỳ tương tự với cổ phiếu NH là BĐS. Theo thống kê, có đến 71% cổ phiếu BĐS đang giao dịch với chỉ số P/B (giá cổ phiếu trên giá trị sổ sách) dưới 1,0 lần; trong đó, có hơn 23% số cổ phiếu có P/B nhỏ hơn 0,5 lần. Điều này cho thấy giá cổ phiếu BĐS đã đi sát hơn với KQKD của các DN.
Từ kết quả sàng lọc có thể thấy phần lớn các cơ hội đầu tư tiềm năng đều nằm ở ngành BĐS. Trong nhóm này, NĐT dễ dàng nhận thấy một số DN có triển vọng đảo chiều về KQKD khá rõ nét như TDH, NBB, BCI và HQC với các dự án sẵn sàng để kinh doanh. Bên cạnh đó, cũng có một vài DN chưa có sự hồi phục rõ ràng nhưng có khả năng ghi nhận lợi nhuận đột biến và vực dậy tình hình tài chính nhờ việc chuyển nhượng vốn tại các dự án lớn như QCG với dự án Phước Kiển và dự án 39 Bến Vân Đồn, SJS với dự án Nam An Khánh, VPH với dự án Lacasa và KDC Nhơn Đức, ITC với Intresco Plaza và LCG với dự án nhiên liệu sinh học (ethanol)…
Tuy nhiên, NĐT cần cân nhắc đến một đặc điểm chung của các DN này là KQKD những năm gần đây không mấy tích cực do ảnh hưởng chung của thị trường và chi phí lãi vay cao. Để cải thiện dòng tiền và tình hình tài chính, nhìn chung các DN này đều chọn các giải pháp giống nhau: chuyển nhượng một số dự án tiềm năng cho các NĐT khác, phát hành thêm vốn cổ phần để trả nợ và chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, thu hẹp diện tích căn hộ/nền đất và hạ giá bán. Như vậy có nghĩa các DN BĐS chưa thoát khỏi khó khăn thực sự mà đang hoạt động theo một hình thức kinh doanh mới trên nền tảng cũ mà thôi.
Đánh giá về việc đầu tư cổ phiếu BĐS và NH thời điểm này, một lãnh đạo của CTCK KIS cho rằng, kinh tế Việt Nam vừa thoát đáy và bước vào giai đoạn hồi phục. Ở góc độ DN, thị trường lãi suất thấp cũng sẽ khuyến khích các DN đầu tư thêm. Đồng thời, những DN đang sử dụng đòn bẩy tài chính lớn cũng tiết kiệm được đáng kể chi phí tài chính khi lãi suất giảm. Trên nền tảng đó, các ngành kinh doanh nhạy cảm với chu kỳ kinh tế sẽ được hưởng lợi. NĐT có thể nắm bắt cơ hội để gia nhập thị trường, tạo giá trị đầu tư.
Tuy nhiên, rủi ro chung của việc đầu tư vào các cổ phiếu chu kỳ là KQKD của các DN có thể không cải thiện đáng kể hoặc sẽ hồi phục chậm. Do đó, chiến lược đầu tư này sẽ phù hợp hơn với NĐT có khả năng nắm giữ trong trung và dài hạn hoặc khả năng chịu đựng rủi ro cao. Thực tế, NĐT có khả năng chịu đựng rủi ro trung bình hoặc thấp cũng có thể phân bổ một phần danh mục đầu tư vào nhóm cổ phiếu này.