Điểm lại thông tin kinh tế tuần 11-15/3
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 13/3 Điểm lại thông tin kinh tế ngày 14/3 |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Ngày 14/3, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024 về tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Tại Hội nghị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) báo cáo năm 2023 đã triển khai quyết liệt, đồng bộ và kịp thời các giải pháp tiền tệ, tín dụng nhằm góp phần hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, phục hồi tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn đảm bảo giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, ngoại hối và an toàn hệ thống ngân hàng. Lạm phát được kiểm soát bình quân ở mức 3,25%; lãi suất của các giao dịch phát sinh mới cuối năm 2023 giảm hơn 2,5%/năm so với đầu năm.
Đến cuối năm 2023, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 13,78% so với cuối năm 2022; cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng, tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Do khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao, trong 2 tháng đầu năm 2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,72% so với cuối năm 2023.
Tuy nhiên, tốc độ giảm của tháng 2 đã chậm lại (-0,05%) so với tháng 1 (-0,6%). NHNN cho biết, mức giảm tín dụng nằm ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế, chỉ có 2 lĩnh vực tăng trưởng trong 2 tháng đầu năm, đó là bất động sản tăng 0,23% và chứng khoán tăng 2,56% so với cuối năm 2023. NHNN cũng nêu ra một rủi ro đáng quan tâm đối với hoạt động ngân hàng, đó là việc huy động vốn qua cổ phiếu, trái phiếu, FDI tăng thấp so kỳ vọng do những khó khăn trên thị trường trái phiếu, bất động sản chưa được giải quyết căn cơ, triệt để,... khiến nguồn vốn phục vụ tăng trưởng tiếp tục tập trung vào tín dụng ngân hàng (tỷ lệ Tín dụng/GDP tăng cao, cuối năm 2023 đạt khoảng 133%, tăng so với mức 125% cuối năm 2022), tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ.
Tại Hội nghị, NHNN cũng đã báo cáo các khó khăn trong việc cấp tín dụng những tháng đầu năm. Những nguyên nhân khách quan gồm:
(i) Yếu tố thời vụ khi nhu cầu vốn tín dụng thường tăng cao vào dịp cuối năm và thời điểm trước Tết Nguyên đán, quy mô tín dụng khó tăng trưởng nhanh trong đôi tháng đầu năm;
(ii) Cầu và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn còn ở mức thấp (nhiều doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng hoạt động do sức ép giá cả vật liệu tăng, thiếu đơn hàng, chi phí sản xuất kinh doanh cao, nhu cầu vay vốn suy giảm; người dân tăng dự phòng và giảm vay chi tiêu; mức độ tăng/giảm tín dụng của hệ thống phụ thuộc khá lớn vào mức tăng/giảm của tín dụng bất động sản khi khoản này chiếm tới 21% tổng dư nợ tín dụng,…);
(iii) Một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn; nhất là đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa do quy mô vốn nhỏ, năng lực hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi, các giải pháp tăng tiếp cận tín dụng thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, ... chưa thực sự phát huy hiệu quả;
(iv) Các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong triển khai một số chương trình, chính sách tín dụng như: đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng, các quy định pháp luật liên quan đến dự án nhà ở xã hội (quỹ đất, trình tự, thủ tục mua bán, định giá, …) còn nhiều vướng mắc; số lượng dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư rất ít; một số điều kiện đối với người mua nhà không còn phù hợp; đối với các gói cho vay tiêu dùng, thu nhập của người lao động sụt giảm trong bối cảnh thất nghiệp, mất việc làm tăng cao nên không có nguồn để trả nợ dẫn đến cầu tín dụng tiêu dùng giảm;
(v) Khả năng huy động vốn trung, dài hạn của tổ chức tín dụng còn thấp so với nhu cầu vốn trung dài hạn của nền kinh tế.
Về nguyên nhân chủ quan, NHNN cho rằng, một số tổ chức tín dụng còn thận trọng trong thực hiện cấp tín dụng do nợ xấu tăng; một số khoản nợ cũ lãi suất cao chậm được điều chỉnh giảm để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân vay vốn; một số tổ chức tín dụng quy trình thủ tục cho vay vẫn chậm được cải tiến, nhất là thời gian xét duyệt cho vay còn dài, định giá và quyết định tài sản thế chấp quá thận trọng; việc thực hiện cơ chế tài sản bảo đảm còn thiếu linh hoạt, chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản đang trầm lắng.
Chỉ đạo tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ khẳng định, 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm 2021-2025. Mục tiêu tổng quát đã được đề ra trong Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết của Chính phủ: Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đồng thời, chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế, gìn giữ môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước. Một số mục tiêu cụ thể là tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 6-6,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân ở mức 4,0-4,5%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm các NHTM yếu kém) dưới 3%; tăng trưởng tín dụng đạt 15%, ...
Định hướng chỉ đạo, điều hành ngành Ngân hàng, Thủ tướng khái quát bằng ba cụm từ: "5 tăng", "5 giảm", "5 tăng tốc, bứt phá": "Năm tăng" gồm: tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ tín dụng, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới; tăng tháo gỡ vướng mắc pháp lý và chất lượng tín dụng; tăng cường phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và năng lực quản trị điều hành của ngân hàng, của thị trường tài chính; tăng công khai, minh bạch về lãi suất huy động, cho vay và chống tín dụng đen; tăng cường giám sát kiểm tra và phòng ngừa rủi ro, chống tham nhũng, tiêu cực. "Năm giảm" gồm: Giảm lãi suất cho vay; giảm chi phí giao dịch, hoạt động; giảm thủ tục hành chính; giảm phiền hà, sách nhiễu; giảm tiêu cực, lợi ích nhóm, "sân sau", … "Năm tăng tốc, bứt phá" gồm: Tăng tốc, bứt phá về số hóa; tăng tốc, bứt phá về chất lượng dịch vụ; tăng tốc, bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực; tăng tốc, bứt phá về hạ tầng ngân hàng; tăng tốc, bứt phá về phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Tóm lược thị trường trong nước từ 11-15/3
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 11-15/3, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh giảm đầu tuần rồi tăng trở lại ở các phiên cuối tuần. Chốt ngày 15/3, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.979 VND/USD, giảm nhẹ 17 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD, trong khi giá bán USD cuối tuần được niêm yết ở mức 25.127 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng trong tuần từ 11 - 15/3 tăng dần qua từng phiên. Kết thúc phiên 15/3, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.720 VND/USD, tăng 80 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do tăng - giảm đan xen trong tuần qua. Chốt phiên 15/3, tỷ giá tự do cùng tăng mạnh 260 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.560 VND/USD và 25.640 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng trong tuần từ 11-15/3, lãi suất VND liên ngân hàng tăng nhẹ ở các kỳ hạn ngắn trong khi giảm nhẹ ở kỳ hạn 1 tháng. Chốt ngày 15/03, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 0,86% (+0,06 điểm phần trăm); 1 tuần 1,09% (+0,03 điểm phần trăm); 2 tuần 1,44% (+0,12 điểm phần trăm); 1 tháng 2,04% (-0,02 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng hầu như không biến động nhiều ở tất cả các kỳ hạn. Phiên 15/03, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,20% (không đổi); 1 tuần 5,30% (+0.01 điểm phần trăm); 2 tuần 5,37% (+0,01 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,40% (không đổi).
Trên thị trường mở tuần từ 11-15/3, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 15.000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không còn khối lượng lưu hành trên kênh này.
Trong tuần qua, NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất ở tất cả các phiên. Hết tuần, có tổng cổng 74.998,6 nghìn tỷ đồng trúng thầu, lãi suất đều ở 1,4%/năm.
Như vậy, NHNN hút ròng 74.998,6 nghìn tỷ đồng từ thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở, khối lượng tín phiếu NHNN lưu hành cũng tạm thời đứng ở mức này.
Thị trường trái phiếu ngày 13/3, Kho bạc Nhà nước huy động thành công 11.000 tỷ đồng/12.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu, tương đương tỷ lệ trúng thầu là 92%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 3.000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 10 năm và 15 năm huy động được toàn bộ 4.000 tỷ đồng gọi thầu mỗi kỳ hạn. Kỳ hạn 20 năm và 30 năm gọi thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, nhưng đấu thầu thất bại. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm là 1,47% (+0,03 điểm phần trăm so với phiên đấu thầu trước), 10 năm 2,36% (+0,03 điểm phần trăm), 15 năm 2,56% (+0,03 điểm phần trăm).
Trong tuần này, ngày 20/3, Kho bạc Nhà nước chào thầu 13.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 5.000 tỷ đồng/kỳ hạn và 30 năm chào thầu 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp trong tuần qua đạt trung bình 8.815 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh so với mức 13.599 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua có xu hướng tăng ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ kỳ hạn 15 năm và 30 năm.
Chốt phiên 15/3, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,33% (+0,04 điểm phần trăm so với phiên trước đó); 2 năm 1,37% (+0,05 điểm phần trăm); 3 năm 1,40% (+0,06 điểm phần trăm); 5 năm 1,64% (+0,09 điểm phần trăm); 7 năm 2,01% (+0,06 điểm phần trăm); 10 năm 2,53% (+0,02 điểm phần trăm); 15 năm 2,71% (-0,005 điểm phần trăm); 30 năm 3,02% (-0,03 điểm phần trăm).
Trong tuần từ 11-15/3, thị trường chứng khoán điều chỉnh mạnh ở đầu tuần nhưng đã kịp phục hồi tích cực, sau đó rung lắc nhẹ trong những phiên cuối tuần. Chốt phiên 15/3, VN-Index đứng ở mức 1.263,78 điểm, tăng 16,43 điểm (+1,32%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index tăng 3,22 điểm (+1,36%) xuống mức 239,54 điểm; UPCoM-Index tăng nhẹ 0,12 điểm (+0,13%) đạt 91,35 điểm.
Thanh khoản thị trường ở mức cao, trung bình đạt 27.500 tỷ đồng/phiên, tuy nhiên vẫn sụt nhẹ so với mức 29.300 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh gần 3.000 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Nước Mỹ ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế quan trọng trước thềm cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Liên quan đến lạm phát, Văn phòng Thống kê Mỹ cho biết chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn phần và CPI lõi tại Mỹ cùng tăng 0,4% so với tháng trước trong tháng Hai sau khi lần lượt tăng 0,3% và 0,4% ở tháng trước đó, gần khớp với dự báo tăng 0,4% và 0,3% của các chuyên gia.
Như vậy, so với cùng kỳ năm 2023, CPI toàn phần tại quốc gia này tăng khoảng 3,2% trong tháng 2 vừa qua, trái với dự báo duy trì mức tăng như tháng trước ở mức 3,1%.
Tiếp theo, chỉ số giá sản xuất (PPI) toàn phần và PPI lõi tại Mỹ lần lượt tăng 0,6% và 0,3% so với tháng trước trong tháng Hai sau khi tăng 0,3% và 0,5% ở tháng trước đó, cùng mạnh hơn mức tăng 0,3% và 0,2% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, PPI toàn phần tăng 2,8% và PPI lõi tăng 1,6%.
Tiếp theo, về thị trường bán lẻ, doanh số bán lẻ toàn phần và doanh số bán lẻ lõi tại Mỹ lần lượt phục hồi 0,6% và 0,3% so với tháng trước trong tháng Hai sau khi giảm 1,1% và 0,8% ở tháng đầu năm, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với kỳ vọng tăng 0,8% và 0,5%. Bước sang tháng Ba, chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Đại học Michigan khảo sát ghi nhận mức 76,5 điểm, giảm nhẹ so với 76,9 điểm của tháng 2 và trái với dự báo nhích nhẹ lên 77,1 điểm.
Cuối cùng, về thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 9/3 ở mức 209 nghìn đơn, không thay đổi nhiều so với mức 210 nghìn của tuần trước đó và thấp hơn so với mức 218 nghìn đơn theo dự báo. Số đơn trung bình 4 tuần gần nhất ở mức 208 nghìn, giảm nhẹ 500 đơn so với trung bình 4 tuần trước đó.
Trong tuần này, Fed sẽ có cuộc họp chính sách tiền tệ ngày 19-20/3, kết quả cuộc họp sẽ được công bố vào sáng sớm ngày 21/3 theo giờ Việt Nam. Theo kịch bản dự báo chiếm ưu thế của CME, Fed sẽ không thay đổi lãi suất chính sách hiện ở mức 5,25% - 5,50% trong cuộc họp lần này, và sẽ chỉ cắt giảm vào kỳ họp ngày 12/6/2024.
Kinh tế Anh cũng đón nhiều chỉ báo đáng chú ý trong tuần qua. Đầu tiên, Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS) cho biết, GDP tại nước này tăng 0,2% so với tháng trước trong tháng Một sau khi giảm 0,1% ở tháng trước đó, khớp với kỳ vọng của thị trường. Cũng trong tháng Một, sản lượng xây dựng tại nước Anh tăng mạnh 1,1% so với tháng trước sau khi giảm 0,5% ở tháng trước đó, trái với kết quả đi ngang theo dự báo.
Ngược lại, sản lượng công nghiệp tại Anh trong tháng Một giảm nhẹ 0,2% so với tháng trước sau khi tăng 0,6% ở tháng cuối năm 2023.
Tiếp theo, trong tháng Hai, liên quan tới thị trường lao động Anh, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại quốc gia này tăng 16,8 nghìn đơn trong tháng vừa qua sau khi tăng 3,1 nghìn ở tháng trước đó, thấp hơn so với mức 20,3 nghìn theo dự báo. Tỷ lệ thất nghiệp tại nước Anh cũng tăng lên mức 3,9%, trái với dự báo tiếp tục ở mức 3,8% như tháng Một.
Cuối cùng, thu nhập bình quân của người dân Anh tăng 5,6% trong 3 tháng 12-1-2 so với cùng kỳ, giảm tốc nhẹ so với mức tăng 5,8% của 3 tháng 11-12-1 đồng thời cũng thấp hơn mức tăng 5,7% theo dự báo. Trong tuần này, ngay sau Fed, Ngân hàng trung ương Anh (BoE) cũng có cuộc họp chính sách tiền tệ ngày 21/3. Hầu hết thị trường cho rằng BoE sẽ giữ lãi suất chính sách ở mức 5,25%.