Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 23-27/10
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 24/10 Điểm lại thông tin kinh tế ngày 25/10 |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
CPI tháng 10/2023 chỉ tăng nhẹ so với tháng 9, qua đó có thể cho rằng lạm phát vẫn đang trong tầm kiểm soát.
Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/10, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2023 chỉ tăng nhẹ 0,08% so với tháng trước đó, nguyên nhân chính do một số địa phương thực hiện tăng học phí, giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu.
So với tháng 12/2022, CPI tháng 10 tăng 3,2% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,59%. Bình quân 10 tháng năm 2023, CPI tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước.
Theo Tổng cục Thống kê, trong mức tăng 0,08% của CPI tháng 10/2023 so với tháng trước, có 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 2 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Trong 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá, nhóm giáo dục tăng cao nhất với 2,25%, làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm.
Trong đó, giá dịch vụ giáo dục tăng 2,54% do một số địa phương thực hiện tăng học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và một số trường đại học, cao đẳng công lập, dân lập, tư thục cũng tăng học phí năm học 2023-2024 để bảo đảm chi thường xuyên.
Tiếp theo là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,27%, làm CPI chung tăng 0,05 điểm phần trăm do giá gas tăng 4,72%; giá nước sinh hoạt tăng 0,48%; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,29%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,21%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,15% do giá nguyên liệu sản xuất đồ uống và tỷ giá đô la Mỹ tăng; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,12% do chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm quần áo mùa đông tăng; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,06%, trong đó: lương thực tăng 0,9%; thực phẩm giảm 0,14%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,21%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%. Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,11%; nhóm giao thông giảm 1,51%, làm CPI chung giảm 0,15 điểm phần trăm.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản tháng 10/2023 tăng 0,09% so với tháng trước, tăng 3,43% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2023, lạm phát cơ bản tăng 4,38% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức tăng CPI bình quân chung (tăng 3,2%). Nguyên nhân chủ yếu do bình quân giá xăng dầu trong nước 10 tháng năm 2023 giảm 13,24% so với cùng kỳ năm trước, giá gas giảm 8,55%, là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Trên cơ sở số liệu thực tế, Tổng cục Thống kê dự báo CPI bình quân trong cả năm nay tăng khoảng 3,3 - 3,6%.
NHNN cũng dự báo lạm phát bình quân năm 2023 tăng ở mức 3,4% (cộng trừ biên độ 0,3%).
Bộ Tài chính dự báo CPI bình quân năm 2023 tăng trong khoảng 3,2 - 3,6%.
Hầu hết các chuyên gia cũng đều cho rằng nếu không có gì quá đột biến, mục tiêu lạm phát 4,5% của năm nay có thể giữ được, thậm chí có thể đạt thấp hơn dưới 4%.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ ra những thách thức, rủi ro, bao gồm giá dầu tăng liên tục khi cuộc xung đột giữa Hamas với Israel đang diễn ra; xu hướng tăng giá vẫn cao trên thị trường vật liệu xây dựng; biến động giá lương thực vẫn khó lường…
Tựu trung, các ý kiến cơ bản thống nhất rằng vẫn còn dư địa để điều hành giá trong năm 2023. Tuy nhiên, việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý có khả năng tác động đáng kể đến CPI năm 2023, nên các bộ, ngành cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ, đánh giá tác động cụ thể trước mỗi quyết định điều chỉnh giá các mặt hàng thuộc lĩnh vực mình quản lý để đảm bảo mục tiêu điều hành CPI chung trong năm 2023.
Tin trong nước
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 23-27/10, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng - giảm đan xen qua các phiên. Chốt ngày 27/10, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.107 VND/USD, giảm nhẹ 3 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD, trong khi giá bán USD phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 25.262 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá đô - đồng liên ngân hàng cũng tăng giảm luân phiên trong tuần qua. Kết thúc phiên 27/10, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.575 VND/USD, tiếp tục tăng 50 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô - đồng trên thị trường tự do vẫn ít biến động trong tuần qua. Chốt phiên 27/10, tỷ giá tự do chiều mua vào đi ngang trong khi tăng 30 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 24.550 VND/USD và 24.630 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 23-27/10, lãi suất VND liên ngân hàng giảm ở kỳ hạn ngắn trong khi tăng ở các kỳ hạn 2 tuần và 1 tháng. Chốt ngày 27/10, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 1,36% (-0,19 điểm phần trăm); 1 tuần 1,68% (-0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 1,94% (+0,11 điểm phần trăm); 1 tháng 2,60% (+0,57 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng biến động theo xu hướng tăng ở tất cả các kỳ hạn. Phiên cuối tuần 27/10, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,10% (+0,05 điểm phần trăm); 1 tuần 5,21% (+0,05 điểm phần trăm); 2 tuần 5,31% (+0,07 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,40% (+0,06 điểm phần trăm).
Trên thị trường mở tuần từ 23-27/10, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 5.000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố.
NHNN tiếp tục chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 25.549,9 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu, lãi suất phiên thứ Sáu ở mức 1,45% (không đổi so với cuối tuần trước đó). Có 73.799,8 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn.
Như vậy, NHNN bơm ròng 48.249,9 tỷ đồng ra thị trường, đưa khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường xuống 193.349 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu ngày 23/10, Ngân hàng Chính sách xã hội chào thầu 2.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh, khối lượng trúng thầu là 1.000 tỷ đồng, tương đương 50%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm trúng thầu toàn bộ 1.000 tỷ đồng chào thầu với lãi suất 2,5% (không đổi so với tuần trước). Kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, tuy nhiên không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn này.
Ngày 25/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 6.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, khối lượng trúng thầu là 5.450 tỷ đồng, tương đương 84%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được 1.450 tỷ trong 1.500 tỷ đồng chào thầu; kỳ hạn 10 năm huy động được toàn bộ 3.000 tỷ đồng và kỳ hạn 15 năm huy động được 1.000 tỷ đồng/2.000 tỷ đồng chào thầu. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại 5 năm 1,62% (-0,03 điểm phần trăm), 10 năm 2,42% (+0,02 điểm phần trăm), 15 năm 2,65% (+0,02 điểm phần trăm).
Trong tuần này, ngày 01/11, Kho bạc Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 1.500 tỷ, kỳ hạn 10 năm chào thầu 2.000 tỷ và 15 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 5.012 tỷ đồng/phiên, giảm so với mức 6.745 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua giảm ở tất cả các kỳ hạn.
Chốt phiên 27/10, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,77% (-0,02 điểm phần trăm); 2 năm 1,79% (-0,01 điểm phần trăm); 3 năm 1,78% (-0,02 điểm phần trăm); 5 năm 1,75% (-0,01điểm phần trăm); 7 năm 2,66% (-0,05 điểm phần trăm); 10 năm 2,89% (-0,16 điểm phần trăm); 15 năm 3,12% (-0,15 điểm phần trăm); 30 năm 3,31% (-0,06 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần từ 23-27/10 giảm điểm rất mạnh. Chốt phiên 27/10, VN-Index đứng ở mức 1.060,62 điểm, rớt tới 47,41 điểm (-4,28%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 10,41 điểm (-4,56%) về 218,04 điểm; UPCoM-Index giảm 2,52 điểm (-2,94%) còn 83,10 điểm.
Thanh khoản thị trường vẫn ở mức thấp với giá trị giao dịch trung bình gần 15.800 tỷ đồng/phiên, giảm nhẹ so với mức khoảng 17.600 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 1.200 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Nước Mỹ ghi nhận nhiều thông tin kinh tế quan trọng. Đầu tiên, Cơ quan Phân tích Kinh tế Mỹ (BEA) công bố GDP nước này tăng 4,9% so với quý trước trong quý III, sau khi tăng 2,1% ở quý trước đó, tích cực hơn mức tăng 4,5% theo dự báo. Đây là mức tăng theo quý cao nhất kể từ sau quý IV/2021.
Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE lõi tại Mỹ tăng 0,3% so với tháng trước trong tháng Chín, nối tiếp đà tăng 0,1% của tháng Tám và khớp với dự báo của các chuyên gia. So với cùng kỳ năm 2022, PCE lõi tăng 3,7% trong tháng Chín, giảm tốc nhẹ so với mức tăng 3,8% của tháng 8.
Tiếp theo, giá trị đơn đặt hàng hàng hóa lâu bền tại Mỹ tăng 4,7% so với tháng trước trong tháng Chín sau khi tăng chỉ 0,1% ở tháng Tám, đồng thời vượt mạnh so với mức tăng 1,9% theo kỳ vọng.
Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tuần kết thúc ngày 21/10 ở mức 210 nghìn đơn, tăng nhẹ từ 200 nghìn đơn của tuần trước đó và cao hơn một chút so mức 208 nghìn đơn theo dự báo.
Cuối cùng, niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Đại học Michigan khảo sát được điều chỉnh lên mức 63,8 điểm trong tháng 10, tăng nhẹ so với 63,0 điểm theo kết quả sơ bộ.
Trong tuần này, thị trường chờ đợi các quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) về chính sách tiền tệ trong cuộc họp định kỳ ngày 1/11. lãi suất chính sách của cơ quan nay được dự báo ở khoảng 5,25% - 5,50%, không có sự thay đổi so với hiện nay.
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng vừa lần đầu tiên dừng tăng lãi suất chính sách sau một loạt đợt tăng trước đó.
Bên cạnh đó, Eurozone cũng đón đợi một số thông tin kinh tế đáng chú ý. Trong cuộc họp ngày 26/10, ECB nhận định lạm phát vẫn ở mức cao và kéo dài, áp lực vẫn còn lớn. Tuy nhiên, các chỉ báo cũng đã cho thấy lạm phát giảm đáng kể trong tháng Chín vừa qua. Cơ quan này quyết định giữ lãi suất chính sách đi ngang, không có sự thay đổi so với cuộc họp trước. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay cận biên và lãi suất tiền gửi của ECB lần lượt ở mức 4,5%, 4,75% và 4,0%.
Đây là lần đầu tiên ECB dừng tăng lãi suất chính sách sau 10 nhịp tăng liên tiếp bắt đầu từ tháng 7/2022. ECB khẳng định sẽ đưa lạm phát về lại mục tiêu trung hạn 2,0% trong một lộ trình phù hợp, bởi lãi suất chính sách hiện tại đang ở mức mà nếu duy trì trong thời gian đủ dài sẽ đóng góp đáng kể cho mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Liên quan đến kinh tế Eurozone, PMI lĩnh vực sản xuất của khu vực này ở mức 43,0 điểm trong tháng 10, giảm nhẹ từ mức 43,4 điểm của tháng Chín và trái với dự báo tăng lên 43,6 điểm. Bên cạnh đó, PMI lĩnh vực dịch vụ tại Eurozone tháng 10 giảm xuống còn 47,8 điểm, trái với kỳ vọng đi ngang ở mức 48,7 điểm của tháng Chín.
Tại Đức nói riêng, trong tháng 10, PMI sản xuất tăng lên 40,7 điểm từ 39,6 điểm và PMI dịch vụ giảm xuống 48,0 điểm từ 50,3 điểm của tháng Chín. Chỉ số niềm tin kinh doanh tại Đức ở mức 86,9 điểm trong tháng 10, tăng lên từ mức 85,8 điểm của tháng Chín đồng thời cao hơn so với mức 85,9 điểm theo dự báo.