Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 27/11 - 1/12
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 29/11 Điểm lại thông tin kinh tế ngày 30/11 |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Số liệu Tổng cục Thống kê cho thấy, bức tranh kinh tế Việt Nam 11 tháng đầu năm 2023 vẫn chưa thể đột phá, mặc dù có nhiều gam sáng nhưng vẫn còn những lĩnh vực chủ chốt tăng trưởng chậm hoặc giảm so với cùng kỳ 2022.
Ở chiều tích cực, chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 11/2023 tăng 0,25% so với tháng trước. Nguyên nhân chủ yếu do một số địa phương thực hiện tăng giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT, tăng học phí theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP và giá gạo trong nước tiếp tục tăng theo giá gạo xuất khẩu.
So với tháng 12/2022, CPI tháng 11 tăng 3,46% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,45%. Bình quân 11 tháng năm 2023, CPI tăng 3,22% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 4,27%.
Trong 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng trong tháng 11, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 2,9% làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm, nhóm giáo dục tăng 0,38%...
Lạm phát cơ bản là điểm đáng lưu ý. Lạm phát cơ bản tháng 11/2023 tăng 0,16% so với tháng trước, tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2023, lạm phát cơ bản tăng 4,27% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức tăng CPI bình quân chung (tăng 3,22%). Nguyên nhân chủ yếu do bình quân giá xăng dầu trong nước 11 tháng giảm 12,12% so với cùng kỳ năm trước, giá gas giảm 7,5%. Đây là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài 11 tháng tăng gần 15%, mức cao nhất kể từ đầu năm. Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/11/2023 đạt gần 28,85 tỷ USD.
Trong đó, vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì mức tăng mạnh, góp phần đưa mức tăng của 11 tháng lên mức cao nhất kể từ đầu năm tới nay (14,8%). Với 2.865 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 16,41 tỷ USD, vốn đăng ký cấp mới 11 tháng đã tăng 58,1% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và tăng 42,4% về số vốn đăng ký. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo được cấp phép mới FDI lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 14,26 tỷ USD, chiếm 86,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 858,4 triệu USD, chiếm 5,2%; các ngành còn lại đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 7,9%.
Tương tự, vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài cũng có mức tăng mạnh với 3.166 lượt có tổng giá trị góp vốn 5,97 tỷ USD, tăng 46,4% so với cùng kỳ năm trước. Trái lại, vốn đăng ký điều chỉnh 11 tháng giảm 32,1% so với cùng kỳ năm trước. Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2023 ước đạt 20,25 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất của 11 tháng trong 5 năm qua.
Hoạt động thương mại dịch vụ tháng 11 diễn ra khá sôi động để chuẩn bị phục vụ cho các ngày lễ lớn cuối năm và chào mừng năm mới 2024. Theo đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2023 ước tính tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 15,3%, doanh thu du lịch lữ hành tăng 50,5%. Điểm ấn tượng nhất là hơn 1,23 triệu lượt khách quốc tế đã đến Việt Nam trong tháng 11, tăng 11% so với tháng 10, lập kỷ lục là tháng đón nhiều khách nhất từ đầu năm đến nay.
Tính chung trong 11 tháng qua, Việt Nam đã đón hơn 11,2 triệu lượt khách quốc tế, vượt kế hoạch đề ra đầu năm 40%; gấp 3,8 lần cùng kỳ năm trước và bằng 68,9% so với cùng kỳ năm 2019 - trước đại dịch Covid-19.
Ở chiều ngược lại, thu ngân sách nhà nước chậm hơn so với cùng kỳ năm ngoái, xuất nhập khẩu vẫn giảm mặc dù thặng dư cán cân thương mại ở mức cao, các ngành công nghiệp, đặc biệt công nghiệp chế biến chế tạo, tăng trưởng thấp khiến bức tranh kinh tế 11 tháng vẫn chưa hoàn toàn tích cực.
Cụ thể, tổng thu ngân sách nhà nước tháng 11/2023 ước sụt giảm trên 25% so với tháng trước; lũy kế tổng thu ngân sách nhà nước 11 tháng năm 2023 ước bằng 94,9% dự toán năm và giảm 7,1% so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù Bộ Tài chính dự báo có thể hoàn thành mục tiêu thu ngân sách nhà nước năm nay, nhưng hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro khi các khoản thu chính đều sụt giảm. Cụ thể, thu nội địa lũy kế 11 tháng năm 2023 ước bằng 95,4% dự toán năm và giảm 3% so với cùng kỳ năm trước; thu từ dầu thô lũy kế 11 tháng năm 2023 ước vượt 35,9% so với dự toán đề ra nhưng giảm 19,3% so với cùng kỳ; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu lũy kế 11 tháng năm 2023 có tốc độ thu rất chậm, mới bằng 86,5% dự toán năm và giảm sâu nhất, lên tới 22,4%.
Trong khi đó, lũy kế chi ngân sách nhà nước 11 tháng ước bằng 72,4% dự toán năm và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, chi thường xuyên bằng 81,3% dự toán năm và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước; chi đầu tư phát triển đạt 63,4% và tăng 36,3%; chi trả nợ lãi bằng 84% và tăng 3,4%. Như vậy, tính hết tháng 11, ngân sách nhà nước chỉ còn duy trì thặng dư 34,7 nghìn tỷ đồng và ngày càng co hẹp so với những tháng trước đó.
Về thương mại quốc tế, tính từ đầu năm đến hết ngày 15/11/2023, tuy cán cân thương mại hàng hóa thặng dư tới 22,44 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa sơ bộ mới đạt 587,68 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 6,4%; nhập khẩu giảm tới 11,7%.
Về sản xuất công nghiệp, mặc dù có xu hướng phục hồi tích cực mấy tháng gần đây, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp IIP tính chung 11 tháng ước chỉ tăng 1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ 2022 tăng 8,4%); trong đó, ngành chế biến chế tạo tăng 1,1% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,7%).
Bên cạnh đó, S&P Global công bố, chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam trong tháng 11 đã giảm ở mức thấp trong vòng 5 tháng trở lại đây, xuống mức 47,3 điểm từ mức 49,6 điểm của tháng 10. Nhu cầu yếu ở cả trong và ngoài nước đã khiến ngành sản xuất Việt Nam suy giảm trong tháng 11, đồng thời một phần thể hiện phản ứng của khách hàng với tình trạng giá cả tăng. S&P Global nhận định, ngành sản xuất Việt Nam cần sẵn sàng bước vào năm 2024 với tình trạng khá ảm đạm, hy vọng nhu cầu sẽ sớm tăng trở lại.
Tin trong nước
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 27/11 - 1/12, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng ở 2 phiên đầu tuần và cuối tuần, giảm 3 phiên giữa tuần. Chốt ngày 1/12, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.923 VND/USD, giảm nhẹ 4 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD, trong khi giá bán USD phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 25.069 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng dao động tăng - giảm đan xen qua các phiên. Kết thúc phiên 1/12, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.290 VND/USD, tăng 22 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do biến động theo xu hướng tăng nhẹ trong tuần qua. Chốt phiên 1/12, tỷ giá tự do tăng 160 đồng ở chiều mua vào và 90 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 24.600 VND/USD và 24.650 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 27/11 - 1/12, lãi suất VND liên ngân hàng biến động tăng - giảm nhẹ qua các phiên. Chốt ngày 1/12, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 0,20% (không thay đổi); 1 tuần 0,32% (+0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 0,56% (+0,07 điểm phần trăm); 1 tháng 1,04% (+0,06 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng cũng ít biến động ở tất cả các kỳ hạn. Phiên cuối tuần 1/12, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,05% (-0,01 điểm phần trăm); 1 tuần 5,16% (+0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 5,27% (+0,02 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,37% (+0,02 điểm phần trăm).
Thị trường mở tuần từ 27/11 - 1/12, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 5.000 tỷ VND, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố.
NHNN tiếp tục không chào thầu tín phiếu NHNN trong tuần qua. Có 56.750 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn.
Như vậy, NHNN bơm ròng 56.750 tỷ đồng ra thị trường, đưa khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường giảm xuống mức 14.999,9 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu ngày 29/11, Kho bạc Nhà nước chào thầu 6.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, có 5.550 tỷ đồng thúng thầu (tỷ lệ trúng thầu là 93%). Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được 550 tỷ đồng/1.000 tỷ đồng chào thầu, kỳ hạn 10 năm và 15 năm huy động được toàn bộ 2.000 tỷ đồng chào thầu mỗi kỳ hạn, kỳ hạn 30 năm huy động được toàn bộ 1.000 tỷ đồng chào thầu. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại 5 năm 1,60% (-0,04 điểm phần trăm so với phiên tuần trước), 10 năm 2,28% (-0,09 điểm phần trăm), 15 năm 2,48% (-0,11 điểm phần trăm), 30 năm 3,05% (không thay đổi).
Trong tuần này, ngày 4/12, Ngân hàng Chính sách xã hội gọi thầu 3.101 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh kỳ hạn 15 năm và UBND tỉnh Khánh Hòa gọi thầu 500 tỷ đồng trái phiếu chính quyền địa phương kỳ hạn 10 năm.
Ngày 6/12, Kho bạc Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm và 30 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 2.000 tỷ đồng mỗi kỳ hạn.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 8.176 tỷ đồng/phiên, tăng nhẹ từ mức 7.790 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua tiếp tục xu hướng giảm ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ kỳ hạn 7 năm. Chốt phiên 1/12, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,63% (-0,02 điểm phần trăm); 2 năm 1,63% (-0,02 điểm phần trăm); 3 năm 1,64% (-0,03 điểm phần trăm); 5 năm 1,72% (-0,02điểm phần trăm); 7 năm 2,15% (+0,01 điểm phần trăm); 10 năm 2,33% (-0,08 điểm phần trăm); 15 năm 2,54% (-0,09 điểm phần trăm); 30 năm 3,11% (-0,06 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần từ 27/11 - 1/12, các chỉ số trên thị trường chứng khoán chưa xác định rõ xu hướng, tăng giảm đan xen qua các phiên. Chốt phiên 1/12, VN-Index đứng ở mức 1.102,16 điểm, tăng 6,55 điểm (+0,60%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index nhích 0,16 điểm (+0,07%) lên mức 226,26 điểm; UPCoM-Index thêm 0,20 điểm (+0,24%) đạt 85,19 điểm.
Thanh khoản thị trường ở mức thấp với giá trị giao dịch trung bình trên 14.550 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh gần 1.600 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Nước Mỹ ghi nhận một số chỉ báo kinh tế quan trọng. Đầu tiên, theo báo cáo sơ bộ lần 2, GDP quý III của nước này được điều chỉnh lên mức tăng 5,2% so với quý trước, cao hơn so với mức tăng 4,9% theo báo cáo ban đầu, đồng thời tích cực hơn mức tăng 5,0% theo dự báo của Reuters.
Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng PCE lõi tại quốc gia này (thước đo lạm phát chính của Fed) tăng nhẹ 0,2% so với tháng trước trong tháng 10, thấp hơn mức tăng 0,3% của tháng trước đó và khớp với dự báo. Bên cạnh đó, PCE toàn phần trong tháng 10 chỉ đi ngang sau khi tăng 0,4% ở tháng Chín. So với cùng kỳ 2023, PCE lõi và PCE toàn phần lần lượt tăng 3,5% và 3,0%, cùng hạ nhiệt so với mức tăng 3,7% và 3,4% ở tháng Chín.
Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 25/11 ở mức 218 nghìn đơn, tăng lên từ mức 211 nghìn đơn của tuần trước đó và gần khớp với dự báo ở mức 219 nghìn.
Tiếp theo, Viện Quản lý Cung ứng Mỹ (ISM) cho biết PMI lĩnh vực sản xuất tại nước này ở mức 46,7% trong tháng 11, không thay đổi so với kết quả khảo sát tháng 10, trái với kỳ vọng tăng nhẹ lên mức 47,9%.
Cuối cùng, chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Conference Board khảo sát ở mức 102 điểm trong tháng 11, tăng lên từ mức 99 điểm của tháng 10 và vượt qua mức 101 điểm theo dự báo.
Trong tháng 12, thị trường chờ đợi cuộc họp cuối năm của Fed. Trong cuộc họp này, Fed sẽ đưa ra quyết định về lãi suất chính sách, bên cạnh đó sẽ dự báo triển vọng kinh tế, lạm phát và đường đi của lãi suất chính sách trong tương lai.
Hiện tại, theo dự báo của CME, có 97% khả năng Fed không thay đổi lãi suất chính sách ở mức 5,25 - 5,50% trong cuộc họp lần này và chỉ 3% khả năng tăng lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản.
Theo kịch bản chiếm ưu thế, Fed có thể giữ lãi suất chính sách đi ngang trong ngắn hạn và bắt đầu cắt giảm trở lại kể từ 20/3/2024 với tổng cộng 5 lần hạ lãi suất chính sách trong cả năm. lãi suất chính sách cuối 2024 được CME dự báo ở mức 4,0% - 4,25%.
Mặc dù vậy, trong buổi họp báo ngày 1/12 tại Washington, Chủ tịch Fed Jerome Powell vẫn khẳng định vẫn còn quá sớm để suy đoán về thời điểm cơ quan này bắt đầu cắt giảm lãi suất, bất chấp những tiến bộ gần đây trong cuộc chiến với lạm phát.
Khu vực Eurozone đón một số thông tin đáng chú ý. Cụ thể, về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng CPI lõi và CPI toàn phần tại Eurozone lần lượt tăng 3,6% và 2,4% so với cùng kỳ trong tháng 11 theo báo cáo sơ bộ, cùng giảm tốc nhanh so với mức tăng 4,2% và 2,9% ở tháng trước đó, đồng thời cùng thấp hơn mức 3,9% và 2,7% theo dự báo. Kết quả trên đang chứng minh những gì mà Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) nhận định, rằng lãi suất chính sách đang ở mức đủ cao để góp phần vào việc hạ lạm phát theo thời gian.
Tiếp theo, về thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone ở mức 6,5% trong tháng 10, đi ngang so với kết quả thống kê của tháng 9.
Về nước Đức nói riêng, CPI tại quốc gia này giảm 0,4% so với tháng trước trong tháng 11 sau khi đi ngang tháng trước đó, sâu hơn mức giảm 0,1% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2022, CPI tại Đức tăng 3,2%, cũng hạ xuống từ mức 3,8% ghi nhận trong tháng 10.