Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 8-12/4
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 10/4 Điểm lại thông tin kinh tế ngày 11/4 |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng tích cực trong quý I/2024, đà tăng trưởng được nhận định có khả năng tiếp tục được duy trì trong cả năm 2024.
Theo thông tin từ Bộ Tài chính, quý I/2024, VN-Index tăng trưởng ấn tượng 13,6% so với đầu năm. Nhịp tăng tốc ở mức cao này đưa chứng khoán Việt Nam lọt top những thị trường dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng ở khu vực châu Á trong quý đầu tiên của năm 2024. Bên cạnh đó, tỷ lệ đòn bẩy ký quỹ (cho vay ký quỹ/vốn hóa thị trường) đạt mức 7,3% vào cuối năm 2023, cao thứ 2 trong lịch sử. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu hiện nay đạt khoảng 6,66 triệu tỷ đồng, tăng 12,2% so với cuối năm 2023, tương đương 65,2% GDP ước tính năm 2023.
Hiện có 736 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên 2 Sở giao dịch chứng khoán, 870 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM và gần 7,4 triệu tài khoản đầu tư chứng khoán; giá trị giao dịch bình quân tháng 3/2024 là 30,6 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng 31,4% so với tháng trước; bình quân 3 tháng đầu năm là 23,7 nghìn tỷ đồng, tăng 35% so với bình quân năm 2023.
Các yếu tố sau được đánh giá là hỗ trợ đà tăng của thị trường chứng khoán thời gian qua. Tăng trưởng hoạt động thực của nền kinh tế có nhiều điểm sáng. Theo báo cáo quý I/2024 của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cán mốc 178 tỷ USD, tăng 15,5%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 8,2% và tiêu thụ điện cũng ghi nhận mức tăng trưởng hơn 10% trong quý I...
Những số liệu khả quan trên cho thấy nền kinh tế đang trên đà hồi phục rõ rệt củng cố cho đà tăng trưởng dài hạn của thị trường chứng khoán. Việc kiểm soát lạm phát tốt cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn trong mắt giới đầu tư. Thị trường còn được củng cố bởi vĩ mô ổn định. Dù tỷ giá có biến động tăng mạnh trong thời gian gần đây nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Lãnh đạo NHNN cho biết với nguồn lực hơn 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối, NHNN sẵn sàng can thiệp để ổn định tỷ giá khi cần thiết.
Bên cạnh đó, môi trường lãi suất thấp khi lãi suất tiền gửi “chạm đáy” và kênh đầu tư bất động sản còn nhiều nút thắt về tiến độ pháp lý của các dự án cũng là những yếu tố hướng dòng tiền chảy vào kênh chứng khoán. Chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng tín dụng cũng là yếu tố quan trọng hỗ trợ xu hướng tăng dài hạn của thị trường chứng khoán. Nhiều công ty chứng khoán nhận định, năm 2024, chỉ số VN-Index có khả năng tăng trưởng 20%-25%. Với quan điểm kém tích cực hơn, một số công ty chứng khoán dự báo mức tăng thận trọng 10% cho cả năm.
Ngày 29/12/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1726/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 với mục tiêu: "Phát triển thị trường chứng khoán ổn định, an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, hội nhập; nâng cao khả năng chống chịu rủi ro, có cơ cấu hợp lý giữa các cấu phần thị trường, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, chủ yếu cho nền kinh tế; duy trì tăng trưởng về quy mô, chú trọng nâng cao chất lượng; phát triển các công cụ tài chính xanh, tài chính bền vững; đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực chứng khoán; xây dựng hệ thống quản lý, giám sát thị trường gắn với ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại; tăng cường liên kết và hội nhập quốc tế, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa thị trường chứng khoán Việt Nam so với thị trường chứng khoán các nước phát triển".
Giới chuyên gia đánh giá cao động thái này của Chính phủ Việt Nam. Đồng thời, các chuyên gia quốc tế cũng cho rằng, mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi vào năm 2025 theo tiêu chuẩn phân hạng thị trường chứng khoán của các tổ chức quốc tế là rất khả thi. Hiện tại, Việt Nam đã đạt được 7/9 tiêu chí bắt buộc để nâng hạng thị trường.
Theo đó, có 2 vấn đề cần được tháo gỡ để thị trường chứng khoán được nâng hạng, đó là yêu cầu ký quỹ trước giao dịch và giới hạn sở hữu nước ngoài. Hai vấn đề này cần sớm được các cơ quan hữu quan của Việt Nam nghiên cứu, đề xuất giải pháp với Chính phủ khi Việt Nam phấn đấu nâng hạng thị trường chứng khoán trước cuối năm 2025, từ đó hướng tới mục tiêu giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán đạt 100% GDP trước năm 2025 và 120% GDP trước năm 2030.
Tóm lược thị trường trong nước tuần từ 8-12/4
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 8-12/4, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh theo xu hướng tăng. Chốt ngày 12/04, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.082 VND/USD, tăng mạnh 36 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay cuối tuần được niêm yết ở mức 25.236 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng trong tuần từ 8-12/4 tăng giảm đan xen qua các phiên. Kết thúc phiên 12/04, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 25.020 VND/USD, tăng tiếp 60 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do biến động mạnh qua các phiên trong tuần qua. Tuy nhiên, chốt phiên 12/04, tỷ giá tự do chỉ tăng 15 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.450 VND/USD và 25.530 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng trong tuần từ 8-12/4, lãi suất VND liên ngân hàng biến động tăng mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Chốt ngày 12/04, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 4,26% (+1,68 điểm phần trăm); 1 tuần 4,26% (+1,36 điểm phần trăm); 2 tuần 4,36% (+1,13 điểm phần trăm); 1 tháng 4,42% (+0,67 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng biến động tăng - giảm nhẹ qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn. Phiên 12/04, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,26% (+0,01 điểm phần trăm); 1 tuần 5,32% (+0,01 điểm phần trăm); 2 tuần 5,40% (+0,01 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,41% (-0,01 điểm phần trăm).
Trên thị trường mở tuần từ 8-12/4, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 30.000 tỷ VND, lãi suất ở mức 4,0%. Có 9.999,99 tỷ đồng trúng thầu và 8.465,53 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua.
NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất ở tất cả các phiên. Hết tuần, có tổng cộng 25.250 tỷ đồng trúng thầu, lãi suất tăng từ 2,9%/năm lên 3,5% vào phiên cuối tuần.
Như vậy, NHNN bơm ròng 51.283,36 tỷ VND ra thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở, khối lượng tín phiếu NHNN lưu hành giảm xuống mức 123.049,9 tỷ đồng, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 9.999,99 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 10/04, Kho bạc nhà nước huy động thành công 7.025 tỷ đồng/10.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 67%). Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 2.000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 10 năm huy động được 2.500 tỷ đồng/4.500 tỷ đồng gọi thầu và kỳ hạn 15 năm huy động được 2.525 tỷ đồng/3.500 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 20 năm gọi thầu 500 tỷ đồng, nhưng không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm 1,53% (+0,03 điểm phần trăm so với phiên đấu thầu trước), 10 năm là 2,48% (+0,03 điểm phần trăm), 15 năm 2,68% (+0,03 điểm phần trăm).
Trong tuần này, ngày 17/04, Kho bạc nhà nước chào thầu 11.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 2.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm chào thầu 4.500 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm chào thầu 3.500 tỷ đồng và 30 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp trong tuần qua đạt trung bình 7.871 tỷ đồng/phiên, giảm từ mức 9.804 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua vẫn trong xu hướng tăng ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ kỳ hạn 10 năm và 30 năm.
Chốt phiên 12/04, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,79% (+0,02 điểm phần trăm so với phiên trước đó); 2 năm 1,80% (+0,02 điểm phần trăm); 3 năm 1,83% (+0,01 điểm phần trăm); 5 năm 2,08% (+0,02 điểm phần trăm); 7 năm 2,28% (+0,01 điểm phần trăm); 10 năm 2,76% (-0,02 điểm phần trăm); 15 năm 2,97% (+0,01 điểm phần trăm); 30 năm 3,11% (không đổi).
Thị trường chứng khoán trong tuần từ 8-12/4, các chỉ số trên thị trường chứng khoán tăng – giảm đan xen qua các phiên, tuy nhiên vẫn chốt tuần trong sắc xanh. Chốt phiên 12/04, VN-Index đứng ở mức 1.276,60 điểm, tăng 21,49 điểm (+1,71%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index thêm 1,66 điểm (+0,69%) lên mức 241,31 điểm; UPCom-Index nhích 0,56 điểm (+0,62%) đạt 91,21 điểm.
Thanh khoản thị trường giảm khá mạnh, trung bình đạt gần 20.500 tỷ đồng/phiên, từ mức 28.800 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh hơn 1.335 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed công bố biên bản cuộc họp tháng Ba, bên cạnh đó nước này ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế quan trọng. Trong biên bản cuộc họp tháng Ba công bố ngày 11/04, Fed khẳng định lại triển vọng kinh tế Mỹ đã mạnh hơn so với những dự báo đưa ra hồi cuối năm 2023.
Bên cạnh đó, tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt có độ trễ và cần thêm thời gian để thấy được tác động đầy đủ. Sản lượng của nền kinh tế Mỹ có thể sẽ ở dưới mức tiềm năng trong năm 2024, và quay trở lại mức tiềm năng trong dài hạn, khi những tác động từ chính sách tiền tệ yếu dần. Tỷ lệ thất nghiệp được dự báo sẽ không thay đổi nhiều trong vài năm tới. Lạm phát PCE toàn phần và PCE lõi sẽ tiếp tục giảm tốc trong năm nay.
Kết thúc năm, PCE lõi tăng khoảng 2,5% so với cùng kỳ, do cung cầu và cầu trên thị trường chuyển dần sang trạng thái cân bằng. Đến năm 2026, cả hai chỉ báo PCE sẽ ở gần mức tăng mục tiêu 2,0%. Để đạt được lạm phát mục tiêu và toàn dụng nhân công, Fed quyết định duy trì lãi suất chính sách ở mức 5,25% - 5,50%, và sẽ đánh giá cẩn trọng dữ liệu sắp tới.
Cơ quan này không cho rằng việc cắt giảm lãi suất chính sách là phù hợp cho tới khi có đủ niềm tin rằng lạm phát đang hướng về mục tiêu 2,0% một cách bền vững, và sẵn sàng thay đổi quan điểm nếu xuất hiện rủi ro có thể cản trở quá trình đạt được mục tiêu này. Liên quan đến kinh tế Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi tại quốc gia này cùng tăng 0,4% so với tháng trước trong tháng Ba, bằng với đà tăng của tháng trước đó và đồng thời cao hơn dự báo cùng tăng 0,3% so với tháng trước.
So với cùng kỳ 2023, CPI toàn phần tăng 3,5% trong tháng vừa qua, tăng tốc từ mức 3,2% của tháng 2 và vượt qua mức 3,4% theo dự báo. Đây cũng là CPI so với cùng kỳ cao nhất mà Mỹ đón nhận kể từ sau tháng 09/2023.
Tiếp theo, chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần và PPI lõi tại Mỹ cùng tăng 0,2% so với tháng trước trong tháng Ba sau khi lần lượt tăng 0,6% và 0,3% ở tháng Hai, gần khớp với mức tăng 0,3% và 0,2% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, PPI toàn phần và lõi lần lượt tăng 2,1% và 2,8% trong tháng vừa qua sau khi tăng 1,6% và 2,7% tháng trước đó.
Cuối cùng, Đại học Michigan khảo sát cho biết chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ tháng Tư giảm xuống còn 77,9 điểm từ mức 79,4 điểm của tháng Ba, thấp hơn mức 79,0 điểm theo dự báo.
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB không thay đổi lãi suất chính sách trong cuộc họp tháng Tư. Trong cuộc họp ngày 11/04, ECB nhận định áp lực lạm phát tại Eurozone tiếp tục giảm do giá lương thực và hàng hóa giảm, tuy nhiên áp lực giá ở lĩnh vực dịch vụ vẫn đang ở mức cao. Cơ quan này quyết tâm đảm bảo lạm phát quay trở lại mục tiêu trung hạn 2,0% một cách kịp thời. Mức lãi suất chính sách mà ECB áp dụng đang đóng góp tích cực vào quá trình hạ nhiệt lạm phát.
Theo đó, ECB quyết định giữ lãi suất chính sách gồm lãi suất cho tay tái cấp vốn, lãi suất cho vay cận biên và lãi suất tiền gửi tại ECB lần lượt ở mức 4,50%, 4,75% và 4,0%, không thay đổi so với trước. ECB sẽ không đưa ra bất kỳ lộ trình cụ thể nào, tiếp tục dựa vào dữ liệu trong từng cuộc họp để đưa ra các quyết định tiếp theo. Nếu các yếu tố trong tương lai chỉ ra rằng lạm phát đang hạ nhiệt về mức mục tiêu một cách bền vững, việc cắt giảm lãi suất chính sách sẽ trở nên phù hợp.
Liên quan đến kinh tế Eurozone, Sentix khảo sát cho biết chỉ số niềm tin đầu tư tại khu vực này ở mức -5,9 điểm trong tháng Tư, tăng lên từ mức -10,5 điểm của tháng Ba và cao hơn mức -8,3 điểm theo dự báo. Đây là mức niềm tin đầu tư cao nhất Eurozone ghi nhận kể từ sau khi chiến tranh tại Ukraine diễn ra vào tháng 03/2022.
Tiếp theo, tại nước Đức, sản lượng công nghiệp của quốc gia này tăng 2,1% so với tháng trước trong tháng Hai, nối tiếp đà tăng 1,3% của tháng trước đó và vượt qua mức tăng nhẹ 0,6% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, sản lượng công nghiệp tại Đức vẫn cho thấy mức giảm khoảng 4,9%.