Gỡ khó để mở rộng tín dụng “tam nông”
Mở rộng tín dụng, nhưng không hạ chuẩn Cơ hội mở rộng tín dụng cho chuỗi liên kết nông sản |
Chiếm 25% tổng vốn tín dụng nền kinh tế
Do đó, đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi để tăng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực này. Hiện nay, cả nước đã có trên 90 TCTD và gần 1.100 quỹ tín dụng nhân dân tham gia cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, với mạng lưới mở rộng, phủ khắp đến vùng sâu, vùng xa để giúp người dân tại các vùng kinh tế khó khăn tiếp cận được nguồn vốn vay và dịch vụ ngân hàng.
Chia sẻ tại Hội thảo khoa học với chủ đề: Giải pháp tài chính, tín dụng thúc đẩy “tam nông” phát triển nhanh và bền vững, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế thuộc NHNN Việt Nam cho biết, NHNN đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP phù hợp hơn với yêu cầu đặt ra về tái cơ cấu, cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong tình hình mới.
Qua gần 10 năm triển khai, kết quả đầu tư tín dụng của hệ thống ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu được đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ. Thông qua việc bảo đảm đáp ứng được các nhu cầu sản xuất nông nghiệp từ sản xuất đến thu mua chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm đến nhu cầu tiêu dùng của người dân ở nông thôn, góp phần tích cực hỗ trợ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp, gia tăng kim ngạch xuất khẩu và nâng cao vị thế trên thị trường thế giới.
Hiện nay, tín dụng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chiếm 25% tổng vốn tín dụng của toàn nền kinh tế; tăng gấp gần 4 lần sau 9 năm Nghị định 55 được ban hành. Với dư nợ doanh nghiệp khoảng 31,5%; cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh khoảng 68,3%; Hợp tác xã và đối tượng khác khoảng 0,25%.
Là ngân hàng cho vay chủ lực trong lĩnh vực tam nông, ông Hoàng Minh Ngọc, Phó tổng giám đốc Agribank cho biết, đến 30/09/2024, tổng dư nợ cho vay của Agribank đạt trên 1,6 triệu tỷ đồng. Trong đó, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn là hơn 1 triệu tỷ đồng với 2,8 triệu khách hàng, tăng gấp hơn 2 lần so với thời điểm năm 2015 – khi bắt đầu triển khai Nghị định 55 của Chính phủ. Với kết quả như vậy, Agribank là ngân hàng có thị phần cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lớn nhất hệ thống ngân hàng. Vốn tín dụng Agribank đã phủ kín đến 100% số xã trên cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh, tạo việc làm và nâng cao đời sống, thu nhập, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Còn tại Ngân hàng Chính sách xã hội, ông Nguyễn Đức Hải, Phó tổng giám đốc chia sẻ, nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, các hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác ở khu vực nông thôn, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển sản xuất, kinh doanh vươn lên thoát nghèo. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tại vùng nghèo, diện mạo khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi khởi sắc rõ rệt.
Toàn cảnh hội thảo |
Thúc đẩy tín dụng cho tam nông
Có thể thấy, dòng vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Từ đó, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, áp dụng cơ giới hóa, khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cao chất lượng, tăng đầu tư vào chế biến để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp.
Tuy nhiên, theo đánh giá của bà Hà Thu Giang vẫn còn nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng cho tam nông. Đơn cử, khó khăn trong cung ứng vốn giá rẻ, dài hạn. Hiện nguồn vốn chính để các TCTD thực hiện cho vay khu vực này là vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư, có kỳ hạn ngắn, lãi suất thị trường. Khó khăn còn đến từ việc cho vay không có tài sản đảm bảo, năng lực tài chính, năng lực quản trị của một bộ phận khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, phương án sản xuất kinh doanh còn chưa thuyết phục; khả năng quản lý được dòng tiền trong cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn…
Bên cạnh đó còn các vướng mắc khác như biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp; cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều yếu kém, tiếp tục là thách thức lớn để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong quá trình phát triển, ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc; chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế. Mặt khác, phần lớn nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, còn thiếu liên kết trong các khâu sản xuất…
Để hỗ trợ triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, bà Giang cho rằng cần các giải pháp đồng bộ của các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương như chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp, vấn đề đất đai trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các chuỗi liên kết nông nghiệp bền vững... “Trong đó, cần xem xét mở rộng đối tượng được bảo hiểm và hỗ trợ phí bảo hiểm đối với người nông dân canh tác với diện tích lớn, tại các khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, mất mùa”, bà Giang lưu ý thêm.
Trước những khó khăn trong hoạt động hỗ trợ cho lĩnh vực tam nông, ông Vũ Duy Hưng, Phó Trưởng ban Điều hành Quỹ Hỗ trợ Nông dân, Hội Nông dân Việt Nam cũng kiến nghị Chính phủ tiếp tục ban hành các chủ trương, chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm tạo điều kiện cho người dân tiếp cận nguồn vốn lớn hơn, thời gian vay dài hơn với lãi suất ưu đãi. Đồng thời có cơ chế khuyến khích ngành Ngân hàng tập trung cung cấp tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn; tạo môi trường thu hút các ngân hàng mở rộng thêm nhiều địa điểm giao dịch phục vụ cung cấp tín dụng cho người dân.