Khu công nghiệp: Định hướng phát triển và vai trò của doanh nghiệp
Các yếu tố cần để phát triển khu công nghiệp (KCN) hoàn chỉnh, hiện đại theo đúng định hướng được gói gọn ở 4 từ: Chế - Tài - Tâm - Tầm. Phát triển hệ thống KCN Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển và đóng góp của doanh nghiệp, trên nguyên tắc tận dụng tối đa nguồn vốn bên ngoài hướng đến chất lượng đầu tư và bảo vệ quốc phòng, an ninh quốc gia.
Nhìn lại phát triển KCN: Chậm nhưng dựa trên thực tiễn
Trong quá trình hình thành hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cụm từ KCN được nêu ra lần đầu tiên trong định nghĩa “Khu chế xuất” Luật số 6 - L/CTN ngày 23/12/1992 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Đến năm 1996, quy định cụ thể về KCN được luật hóa chính thức tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996. Đến Luật Đầu tư nước ngoài 2005 đã bổ sung định nghĩa loại hình hai khu mới: Khu công nghệ cao và Khu kinh tế (KKT). Đến Luật Đầu tư 2014 đã có quy định rõ hơn về KKT.
Quá trình hoàn thiện xây dựng chính sách về các KCN nêu trên cho thấy sự cẩn trọng trong quản lý nhà nước về KCN giai đoạn đầu mở cửa hội nhập. Đó là không chỉ hướng đến số lượng các dự án đầu tư vào KCN, mà cả chất lượng, cũng như bảo vệ quốc phòng, an ninh. Đây là một định hướng phát triển KCN Việt Nam xuyên suốt trong nhiều năm tới đối với nhiệm vụ thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài.
Tuy việc luật hóa định nghĩa chính thức về KCN vào năm 1996 có chậm, nhưng lại dựa trên thực tiễn đầu tư: Năm 1992 Tập đoàn Nomura (Nhật Bản) đã thành lập Công ty phát triển KCN Nomura - Hải Phòng (MHIZ). MHIZ có tổng vốn đầu tư trên 140 triệu USD để đầu tư trên diện tích 153 ha đất và xây dựng một KCN đầu tiên có vốn nước ngoài tại Việt Nam kể từ sau khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam1987.
Liền trong một số năm sau đó, các KCN ở Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương… cũng đã được hình thành và phát triển. Tính đến cuối năm 2023, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cả nước đã có 416 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 129,9 nghìn ha và tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 89,2 nghìn ha. Trong số đó, có 296 KCN đã đi vào hoạt động, với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 92,2 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 63 nghìn ha và 119 KCN đang trong quá trình xây dựng. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN cả nước đạt khoảng 51,8 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 57,7%. Nếu tính riêng các KCN đã đi vào hoạt động có tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 72,4%.
Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các KCN, KKT
Nhìn lại cả quá trình phát triển hệ thống KCN thời gian qua, và kết quả thu hút thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN gần đây, có thể nhận thấy: xu hướng đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các KCN, KKT. Thời gian vừa qua, hàng năm số lượng vốn FDI vào các KCN, KKT chiếm tới 60-70% lượng vốn FDI thu hút được trong cả nước. Tỷ lệ này vẫn đang trong chiều hướng tăng lên, cho thấy KCN, KKT giữ một vai trò rất quan trọng về kinh tế đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam.
Tuy vậy, do phát triển trong một giai đoạn khá dài trên 32 năm (tính từ năm 1992 - năm đầu tiên Việt Nam có KCN NOMURA tại Hải Phòng), trải qua nhiều giai đoạn phát triển “thăng trầm” khác nhau của nền kinh tế, nên dù hệ thống KCN Việt Nam đã phát triển mạnh thời gian qua, có đóng góp rất tích cực, hiệu quả đối với nền kinh tế, nhưng đến nay vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục sớm.
Trong đó, nổi lên là tỷ lệ lấp đầy các KCN còn thấp, có đến 121/414 KCN vẫn đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng, chưa tận dụng hết được một lượng vốn lớn về đất đai của nền kinh tế. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật của KCN đã được nâng cao nhưng chưa đủ các điều kiện cần thiết, hiện đại để cạnh tranh với các KCN trong khu vực và quốc tế.
Cùng với đó, mô hình phát triển KCN còn theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực với động lực phát triển chủ yếu dựa vào tiềm năng về đất, chưa xây dựng và phát triển được nhiều mô hình KCN mới (KCN công nghệ cao, KCN sinh thái…) để tận dụng được các yếu tố thuận và đòi hỏi của các nhà đầu tư quốc tế về phát triển xanh, bảo vệ môi trường... đồng thời để đáp ứng được đòi hỏi của xu hướng phát triển kinh tế xanh của Việt Nam.
Còn khá nhiều các tồn tại khác hiện nay trong phát triển, quản lý các KCN, như quy hoạch phát triển các KCN tại một số địa phương chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút vốn đầu tư. Mô hình phát triển KCN còn chậm đổi mới… thiếu vắng các KCN sinh thái, KCN Đô thị-Dịch vụ…
Do vậy, tuy Nhà nước đang tập trung giải quyết các bài toán về nhà ở cho người lao động trong các KCN và nhà ở xã hội nói chung, nhưng chưa thể giải xong “một sớm một chiều”. Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghi định 35/2022 NĐ-CP ngày 28/5/2022 Quy định về quản lý KKT, KCN và quy định hướng dẫn chi tiết việc hình thành, quản lý và phát triển các loại hình KCN nhưng phát triển các KCN xanh để loại bỏ chất thải và giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường… thì vẫn còn nhiều các khó khăn nhất định.
Ngoài ra, vẫn còn các quy định và định hướng phát triển các KCN được đưa ra, nhưng nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp quy khác nhau, cùng với thủ tục hành chính cần được hoàn thiện hơn nữa… Khắc phục được những hạn chế này mới có thể thúc đẩy nhanh việc phát triển các loại hình KCN có hiệu quả cao, theo đúng định hướng phát triển xanh và công nghệ cao đặt ra cho giai đoạn phát triển tới.
Chế - Tài - Tâm - Tầm
Trong nhiều tài liệu nghiên cứu về kinh tế, đầu tư và doanh nghiệp đã đề cập đến rất nhiều các yếu tố cần và đủ để phát triển doanh nghiệp vững mạnh làm cơ sở cho kinh tế phát triển. Có thể vì có nhiều mô hình được đề xuất đưa ra nhiều yếu tố khác nhau với các lập luận dài đi kèm làm khó nhớ, khó thực hiện nên việc áp dụng vào thực tiễn rất vất vả với các nhà đầu tư. Nên với việc đưa ra các cụm từ ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện là cần thiết.
Ví dụ, dựa trên kinh nghiệm trồng lúa được đúc kết lại là “Nhất Đất - Nhì Phân - Tam Cần - Tứ Giống”. Kinh nghiệm này tuy không còn hoàn toàn thích hợp với thời đại công nghệ ngày nay nhưng vẫn có các giá trị tham khảo quý. Theo cách đúc kết kinh nghiệm ngắn gọn dễ thuộc, dễ nhớ đó, thì điều đúc rút ra được là các yếu tố cần để phát triển KCN hoàn chỉnh, hiện đại theo đúng định hướng được gói gọn ở 4 từ: Chế - Tài - Tâm - Tầm.
Chế: Là cơ chế quản lý nhà nước, bao gồm cả định hướng phát triển, hệ thống luật pháp chính sách và các quy định về quản lý hành chính đối với các thủ tục hành chính cần thực hiện;
Tài: Là nguồn tài chính (nguồn tiền) cần có để đầu tư và kinh doanh;
Tâm: Là tâm tốt, bên cạnh lợi ích của doanh nghiệp, của cá nhân… doanh nghiệp còn cần thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với người lao động, với trách nhiệm xã hội cao;
Tầm: Là tầm nhìn của người lãnh đạo doanh nghiệp khi đánh giá và bao quát, nhận diện được xu hướng phát triển chung và tìm ra được cách tiếp cận xử lý phù hợp, hiệu quả nhất.
Như vậy có thể nói về cơ bản, phát triển một KCN có thành công hay không phụ thuộc vào doanh nghiệp, doanh nhân - chủ đầu tư là chính. Vì trong cả 4 yếu tố cần có trên, về phía Nhà nước chỉ có 1 yêu cầu phải làm là gắn với từ Chế - đó là hoàn thiện cơ chế quản lý và phát triển KCN, tất yếu là yêu cầu rất quan trọng và có ý nghĩa “bà đỡ” cho sự phát triển của hệ thống KCN. Ba yếu tố còn lại đòi hỏi phải có là “Tài - Tâm - Tầm” đều ở phía doanh nghiệp và phụ thuộc vào tài năng của người đứng đầu doanh nghiệp.
Tất nhiên dưới tác động phát triển rất nhanh của cách mạng khoa học học kỹ thuật hiện nay, đòi hỏi các doanh nghiệp còn phải tự vươn lên để trở thành doanh nghiệp số. Khi chuyển đổi số không còn là tầm nhìn và mục tiêu dài hạn, mà đã trở thành một thực tế bắt buộc, các doanh nghiệp phải có được kiến thức, phương tiện kỹ thuật để tham gia vào quá trình chuyển đổi số, từ đó phát triển, tránh được nguy cơ bị tụt hậu.
(*) Chủ tịch Ban chấp hành lâm thời Liên chi hội tài chính KCN Việt Nam, Nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư