Nền kinh tế khởi sắc nhưng khó khăn chưa hết
GDP quý III năm 2023 tăng 5,33% |
Xin bà cho biết một số đánh giá về tình hình kinh tế xã hội 9 tháng đầu năm 2023?
Kết quả kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2023 cho thấy những tín hiệu tích cực về sự bứt tốc của kinh tế Việt Nam. Có được những kết quả đó, trước tiên là nhờ các cơ chế, chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đã được Chính phủ chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung triển khai, bước đầu đã phát huy hiệu quả. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đạt nhiều kết quả tích cực; tháng sau cao hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, góp phần cải thiện tăng trưởng chung cả năm 2023.
Cụ thể, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, sản xuất kinh doanh được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. GDP trong quý III/2023 tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng 3,28% của quý I và hơn 4,05% của quý II. Tính chung 9 tháng năm 2023, GDP tăng 4,24%.
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức tăng trưởng tốt, đạt 3,43% trong 9 tháng năm 2023, tiếp tục khẳng định vai trò bệ đỡ của nền kinh tế. Sản xuất công nghiệp 9 tháng tiếp tục cho thấy sự hồi phục. Tính chung 9 tháng, IIP toàn ngành công nghiệp tăng nhẹ ở mức 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Đây là điểm sáng nổi bật trong hoạt động sản xuất công nghiệp của nước ta từ đầu năm đến nay khi lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng dương (lũy kế các tháng từ đầu năm đều giảm), cho thấy các điều kiện kinh doanh trong ngành sản xuất đã cải thiện, số lượng đơn đặt hàng mới, hoạt động xuất khẩu và hoạt động mua hàng đều tăng trở lại...
Khu vực dịch vụ vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá với 6,32% trong 9 tháng, trong đó hoạt động bán buôn bán lẻ đạt mức tăng trưởng tốt 8,04%; dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 13,17%; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ đạt 12,40%; hoạt động nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 11,35%; hoạt động dịch vụ khác đạt 10,56%. Khách quốc tế đến Việt Nam 9 tháng năm 2023 ước đạt 8,9 triệu lượt khách, gấp 4,7 lần cùng kỳ năm 2022.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh giảm 4 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 0,5-2,0%/năm. Đến nay, mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm (lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng tiền đồng của các ngân hàng thương mại giảm khoảng hơn 1,0%/năm so với cuối năm 2022). Tăng trưởng tín dụng được định hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và động lực tăng trưởng. Đến ngày 20/9/2023, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 5,8%; tín dụng của nền kinh tế tăng 5,73% so với cùng thời điểm năm 2022.
Dưới góc độ sử dụng, tiêu dùng cuối cùng của dân cư quý III/2023 tăng 3,46% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng của quý I (2,97%) và quý II/2023 (2,41%), cho thấy nhu cầu tiêu dùng của người dân có xu hướng tăng lên nhờ thu nhập tăng. Kết quả đánh giá của các hộ gia đình cho thấy, đời sống dân cư trong quý III và 9 tháng vẫn duy trì ổn định do có đóng góp của một số chính sách mới có hiệu lực. Tỷ lệ hộ dân cư đánh giá có thu nhập trong 9 tháng tăng lên và không thay đổi là 94,1%; tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết so với các tháng năm 2022 là 5,9%.
Vậy đâu là những điểm hạn chế, khó khăn của nền kinh tế qua các số liệu thống kê 9 tháng?
Trong bối cảnh bên ngoài cầu thế giới phục hồi yếu, lạm phát vẫn ở mức cao, chi phí nguyên, nhiên, vật liệu tăng cao, chuỗi cung ứng thiếu ổn định đều dẫn tới năng lực sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp giảm sút. Động lực từ khu vực sản xuất tuy đã có cải thiện so với 6 tháng đầu năm nhưng còn khá yếu. Sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm chủ yếu do thiếu đơn hàng sản xuất, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm giảm so với cùng kỳ năm trước và giảm ở nhiều địa phương có quy mô công nghiệp lớn.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2023 giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước và giảm ở nhiều mặt hàng trong bối cảnh chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới tiếp tục thắt chặt, hàng tồn kho ở mức cao dẫn tới các đơn hàng xuất khẩu giảm.
Doanh nghiệp thành lập mới có mức vốn đăng ký bình quân sụt giảm mạnh. Tổng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới 9 tháng năm 2023 đạt 1.086,8 nghìn tỷ đồng, giảm 14,6% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022 tăng 6,4%). Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng năm 2023 chỉ đạt 9,3 tỷ đồng, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng cao trở lại, chủ yếu do ảnh hưởng của việc tăng giá lương thực, xăng dầu và tăng học phí đầu năm học mới ở một số địa phương (chỉ số giá nhóm lương thực và nhóm giáo dục tháng 9 năm 2023 tăng lần lượt: 3,19% và 8,06% so với cùng kỳ năm trước). CPI tháng 9 năm 2023 tăng 3,66% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất kể từ tháng 3/2023. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 4,49%, cao hơn lạm phát chung (tăng 3,16%) và là mức tăng cao nhất của cùng kỳ trong 5 năm qua, đây là một thách thức đối với việc điều hành chính sách tiền tệ.
Dự báo những tháng cuối năm, và khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng thế nào, thưa bà?
Dù còn nhiều khó khăn do áp lực từ thị trường thế giới nhưng 3 tháng cuối năm, kinh tế của Việt Nam vẫn có triển vọng tăng trưởng từ các yếu tố tích cực như: Tiêu dùng trong nước thường có xu hướng tăng vào cuối năm. Cầu đầu tư cũng sẽ được hỗ trợ lớn từ đầu tư công - đang được triển khai ráo riết theo cam kết của Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương. Đầu tư công sẽ là đòn bẩy cho các luồng đầu tư ngoài nhà nước và đầu tư FDI.
Về phía cung, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục thể hiện vai trò là “trụ đỡ” vững chắc của nền kinh tế. Khu vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo thoát khỏi vòng suy giảm âm từ đầu năm và có dấu hiệu khởi sắc trong quý III sẽ giảm tối đa áp lực cho tăng trưởng. Khu vực dịch vụ những tháng cuối năm được dự báo sẽ tiếp tục có sự tăng trưởng khá.
Bên cạnh đó, lạm phát được kiểm soát hiệu quả sẽ giúp ổn định dòng tiền là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Mặt bằng lãi suất đã giảm và dự kiến lãi suất cho vay khả năng tiếp tục giảm trong thời gian tới sẽ kích thích tăng trưởng, hỗ trợ sản xuất - kinh doanh và kích thích tiêu dùng của người dân.
Hoạt động xuất nhập khẩu những tháng cuối năm có khả năng được cải thiện do hoạt động sản xuất đã bớt khó khăn và xu hướng tăng nhẹ của hoạt động xuất khẩu những tháng gần đây. Bên cạnh đó, một số nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản có dấu hiệu tăng trở lại…
Trên cơ sở các nhận định trên, tăng trưởng kinh tế nhiều khả năng sẽ tiếp tục cải thiện trong quý tới. Tuy nhiên, với những khó khăn từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế thì tăng trưởng kinh tế năm nay sẽ không cao như kỳ vọng. Bởi để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% cả năm thì tăng trưởng quý IV cần đạt trên 12%. Đây là điều khó khả thi trong bối cảnh kinh tế hiện nay.
Tổng cục Thống kê có đề xuất giải pháp chính sách gì để tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm 2023?
Cùng với ổn định tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, tạo niềm tin cho nhà đầu tư, cần tiếp tục phát huy hiệu quả các chính sách tài khóa (hỗ trợ doanh nghiệp và người dân như giãn, hoãn, giảm thuế…); chính sách tiền tệ (cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất, phí dịch vụ, các gói tín dụng ưu đãi); chính sách thúc đẩy đầu tư công, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các thị trường đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch, vốn,… Song song với giảm thuế, hoãn thuế, cần giảm các loại phí và hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm những thị trường mới. Tận dụng tốt các FTA đã ký kết và đẩy mạnh đàm phán, ký kết thêm các hiệp định mới; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng cho doanh nghiệp.
Cần tăng cường các khâu kiểm soát chất lượng hàng hoá nhập khẩu theo các quy định và các biện pháp WTO cũng như thông lệ quốc tế cho phép để kiểm soát chất lượng hàng hoá đầu vào, loại bỏ những mặt hàng có chất lượng kém, không phù hợp với các tiêu chuẩn Việt Nam.
Thực hiện có hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Chú trọng đầu tư hiện đại hóa hệ thống phân phối ở vùng nông thôn, miền núi để đẩy mạnh đưa hàng Việt về nông thôn, đẩy mạnh triển khai các hoạt động kích cầu tiêu dùng nội địa tại các địa phương có các sản phẩm đặc thù, lợi thế. Đồng thời, theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả, thị trường các mặt hàng thiết yếu để điều hành phù hợp, hiệu quả, bảo đảm nguồn cung về điện, xăng dầu cho thị trường trong mọi tình huống.
Đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, ưu tiên các dự án sắp hoàn thành; sớm đưa vào sử dụng các dự án có quy mô, có tiềm năng nhằm duy trì và mở rộng năng lực sản xuất - kinh doanh. Đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Khuyến khích các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới, xanh, ít phát thải, có sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân, nhất là phát huy hiệu quả mô hình hợp tác công - tư vào đầu tư cơ sở hạ tầng.
Để phát triển đường dài nhanh và bền vững, Việt Nam cần phải đảm bảo giữ ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng chống chịu, củng cố các động lực tăng trưởng truyền thống vừa tạo không gian đủ rộng để khai thác hiệu quả các mô hình, động lực tăng trưởng mới. Trong bối cảnh hiện nay, việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế; chuyển đổi số; tăng trưởng xanh và chuyển đổi năng lượng, phát triển các mô hình kinh tế hiện đại sẽ là các động lực mới cho nền kinh tế hiện nay.
Xin cảm ơn bà!