Siết chặt quản lý mã số, vùng trồng sầu riêng xuất khẩu
Hải quan Trung Quốc cấp 51 mã số vùng trồng và 25 cơ sở đóng gói cho sầu riêng Việt Nam. |
Xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc vào khoảng 1,3 triệu tấn năm
Trung Quốc là một trong số ít thị trường tiêu thụ sầu riêng lớn nhất thế giới, với kim ngạch nhập khẩu hàng năm 4 tỷ USD. Trước khi Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sầu riêng sang Trung Quốc được ký kết, Việt Nam xuất khẩu tiểu ngạch sầu riêng sang thị trường này nhưng số lượng không nhiều.
Sau 4 năm đàm phán, ngày 11/7/2022, Nghị định thư xuất khẩu chính ngạch sầu riêng sang Trung Quốc được ký kết. Từ khi có Nghị định thư đến nay, trái sầu riêng của Việt Nam chính thức được phép nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc.
Danh sách 51 vùng trồng và 25 cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam được phê duyệt. Như vậy dự kiến có khoảng 3.000 ha với sản lượng 68 nghìn tấn sầu riêng/năm được phép xuất khẩu sang Trung Quốc. Nhu cầu xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc vào khoảng 1,3 triệu tấn năm. Đây là con số lớn.
Thông tin từ Cục Bảo vệ Thực vật (Cục BVTV - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, đến nay, có 26/51 vùng trồng đang cho thu hoạch trong tháng 9 và đến hết tháng 11. Sản lượng trung bình khoảng 13.000- 14.000 tấn/tháng. 20/25 nhà đóng gói (NĐG) đã có hợp đồng với nhà nhập khẩu Trung Quốc.
Số lượng xuất khẩu sang Trung Quốc có thể tăng lên sau khi hồ sơ của các vùng trồng và cơ sở đóng gói khác được tiếp tục gửi để Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) xem xét phê duyệt.
Phát biểu tại Hội nghị triển khai xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc ngày 12/9, ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nhấn mạnh, số lượng hoặc có thể giảm xuống, thậm chí mất thị trường xuất khẩu nếu các vùng trồng và cơ sở đóng gói sầu riêng đã được cấp mã số không được kiểm soát chặt chẽ, không đảm bảo chất lượng hàng hóa, vi phạm quy định nhập khẩu của Trung Quốc. Hoặc nếu có việc gian lận mã số cũng có thể xảy ra. Sầu riêng đã được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc nhưng để vào thị trường này lâu dài, bền vững, Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của nước này...
“Là doanh nghiệp xuất khẩu sang nhiều thị trường, chúng tôi thấy Trung Quốc là thị trường rất khó tính. Chúng tôi đã chuẩn bị rất chu đáo cho việc xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc, đã đọc rất kỹ Nghị định thư và chúng tôi có nhiều trăn trở và cả lo lắng”, bà Ngô Tường Vy - Phó Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu bày tỏ.
Lo lắng và băn khoăn của bà Vy là không biết phía Trung Quốc sẽ kiểm tra hàng thế nào, bao nhiêu phần trăm diện tích vùng trồng được phía họ phối hợp kiểm tra để cấp mã số vùng trồng, bao giờ thì tất cả các vùng trồng được cấp mã số. Và liệu bao nhiêu phần trăm vùng trồng đáp ứng được yêu cầu để được cấp mã số vùng trồng…
Theo Nghị định thư, lô hàng phải được thu hoạch và đóng gói từ vùng trồng và cơ sở đóng gói đã được cấp mã số. Mã số này phải được cả Cục Bảo vệ thực vật và Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt.
“Vùng trồng phải áp dụng thực hành nông nghiệp tốt và IPM, phải thực hiện giám sát theo ISPM số 6. Lô hàng phải được kiểm dịch thực vật và không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật mà Trung Quốc quan tâm, không có dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép”, bà Nguyễn Thị Thu Hương - Phó Cục trưởng Cục BVTV cho biết.
Một người vi phạm, nguy cơ mất cả thị trường
Lời của bà Vy cũng là những băn khoăn suy nghĩ của ông Võ Ngọc Huy - Phó Giám đốc HTX Cây ăn trái Krông Pắc và ông Nguyễn Đình Mười - Giám đốc Công ty TNHH XNK Phong Phú.
Dù bản thân doanh nghiệp và HTX rất chú trọng việc tuân thủ tốt để đưa được hàng vào Trung Quốc, để giữ được thị trường lâu dài, nhưng liệu sẽ có hay không việc sử dụng mã vùng trồng không đúng quy định… Biện pháp nào để ngăn chặn việc này. Cần phải làm những gì để xuất khẩu sầu riêng sang thị trường Trung Quốc một cách chặt chẽ, chuyên nghiệp, minh bạch, giữ được thị trường dài lâu?
Để doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân chủ động và làm tốt, để duy trì và tiếp tục nâng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng chính ngạch sang Trung Quốc, bà Nguyễn Thị Thu Hương / Phó cục trưởng Cục BVTV lưu ý các đơn vị liên quan cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp để đảm bảo các lô hàng xuất khẩu tuân thủ đúng quy định của Trung Quốc.
Các cơ quan quản lý địa phương cần tiếp tục bám sát, đồng hành cùng các vườn trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng để kịp thời hướng dẫn, giải quyết những vấn đề phát sinh.
Các doanh nghiệp xuất khẩu phối hợp với các cơ sở đóng gói, các vùng trồng tuân thủ chặt chẽ các quy định của Trung Quốc, phải luôn duy trì việc đáp ứng về giám sát dư lượng, kiểm soát sinh vật gây hại trong suốt quá trình sản xuất.
“Không được gian lận, không được sử dụng mã số khi không được phép, không được trộn hàng. Chỉ một gười vi phạm sẽ ảnh hưởng đến cả 30 tỉnh trồng sầu riêng và không chỉ làm mất uy tín mà còn nguy cơ làm mất thị trường”, bà Hương nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, để mở cửa thị trường cho trái sầu riêng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Việt Nam mất 4 năm vất vả, trăn trở và thậm chí còn có những đánh đổi nhất định trong thương mại song phương. Chính vì thế, Bộ trưởng yêu cầu chuẩn hóa "đầu vào" trong việc xây dựng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, đồng thời siết chặt quản lý, tránh sự "dễ dãi" mà có nguy cơ đánh mất thị trường xuất khẩu sầu riêng.
"Đây là trách nhiệm chung. Chúng ta không chỉ "chen nhau" để xuất khẩu đợt này, mà cần hướng tới năm, mười năm tới, không chỉ thị trường này (Trung Quốc) mà còn nhiều thị trường khác như Nhật Bản, Úc... Phải làm việc thật trách nhiệm và có cảm xúc, xây dựng được một hệ sinh thái đồng hành cùng mình. Phải thật minh bạch, trách nhiệm, không để "con sâu làm rầu nồi canh", Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Đình Mười khẳng định doanh nghiệp sẽ nghiêm túc và có trách nhiệm. Ông cũng tin tưởng với sự hợp tác 3 nhà: Nhà nước (Cục BVTV và các cơ quan quản lý địa phương) - nhà nông - doanh nghiệp; đồng thời các bên liên quan cùng nhau triển khai các giải pháp trêm để Việt Nam sẽ có được các vùng trồng, cơ sở đóng gói sầu riêng đạt chuẩn xuất khẩu, góp phần xây dựng hình ảnh một nền nông nghiệp Việt Nam minh bạch, trách nhiệm đối với người tiêu dùng.