Năm 2024: Áp lực lạm phát vẫn hiện hữu
Dự báo lạm phát năm 2024 khoảng 2,5-3,5% |
Lạm phát trong tầm kiểm soát
Năm 2024, Quốc hội giao chỉ tiêu tốc độ tăng CPI bình quân trong khoảng 4,0-4,5%. Theo nhiều chuyên gia và tổ chức, mục tiêu này hoàn toàn khả thi. Cụ thể, theo dự báo của các chuyên gia Khối nghiên cứu toàn cầu, ngân hàng HSBC trong báo cáo Vietnam At A Glance tháng 1 công bố ngày 11/1, sau thành công trong kiểm soát năm 2023 (tăng 3,25%), kỳ vọng lạm phát sẽ tiếp tục duy trì ở mức tăng rất nhẹ trong năm 2024 (dự báo tăng ở mức 3,4%), thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra.
Cao hơn một chút so với dự báo trên của HSBC, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định, CPI bình quân năm 2024 sẽ ở mức 3,5-4%. Cơ sở để đưa ra nhận định này là do đà giảm giá hàng hóa thế giới chững lại (hoặc thậm chí tăng trở lại so với năm 2023, nhất là giá năng lượng, lương thực - thực phẩm và nguyên vật liệu cơ bản có thể tăng do dịch bệnh, thiên tai, căng thẳng địa chính trị còn phức tạp, khó lường); việc tiếp tục điều chỉnh các mặt hàng do Nhà nước quản lý (như tăng lương tối thiểu vùng, tăng giá điện, học phí, viện phí…); cung tiền và vòng quay tiền tăng cao hơn năm 2023 (một phần là do đà phục hồi kinh tế và tín dụng dự báo tăng cao hơn)…
Tuy nhiên TS. Cấn Văn Lực cho rằng, ngay cả ở mức tăng 3,5-4% dự kiến như vậy, lạm phát vẫn luôn nằm trong tầm kiểm soát và cho thấy nằm trong xu hướng giảm, thấp khá bền vững trong những năm gần đây.
Giá xăng dầu vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường do xung đột ở Trung Đông |
Mặc dù vậy, cũng có những nhận định cho thấy lạm phát sẽ gia tăng khá mạnh trong năm nay. Đơn cử, theo báo cáo nghiên cứu toàn cầu về Việt Nam tháng 1 của ngân hàng Standard Chartered, cùng với nhận định tăng trưởng GDP tích cực (dự kiến đạt mức 6,7%) thì tỷ lệ lạm phát cũng tăng thêm nhanh trong năm nay. Cụ thể Standard Chartered dự báo các yếu tố từ phía cầu có thể sẽ khiến CPI năm nay tăng ở mức 5,5%, tức vượt mục tiêu đặt ra.
Theo bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê Giá, Tổng cục Thống kê, năm nay có những yếu tố giúp giảm áp lực lên mặt bằng giá cả. Trong đó, lạm phát toàn cầu dự báo tiếp tục hạ nhiệt sẽ giúp Việt Nam giảm bớt áp lực từ kênh nhập khẩu lạm phát. Trong nước, một số chính sách hỗ trợ về thuế trong năm 2023 được tiếp tục thực hiện trong năm 2024 (như hỗ trợ giảm thuế môi trường đối với xăng dầu, giảm thuế VAT…) góp phần giảm chi phí hình thành giá hàng hóa và dịch vụ. Cùng với đó, nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào sẽ giúp Việt Nam giảm bớt áp lực lạm phát trong bối cảnh đang xuất hiện nhiều rủi ro, thách thức về an ninh lương thực toàn cầu.
Cũng theo bà Oanh, thực tế giai đoạn những tháng đầu năm 2023 áp lực lạm phát khá lớn (như CPI tháng 1/2023 tăng tới 4,89%) nhưng nhờ nhiều giải pháp về tiền tệ, tài khóa được tích cực triển khai cùng với thị trường các mặt hàng thiết yếu không có biến động bất thường, nguồn cung được bảo đảm cũng như giá các hàng hóa cơ bản (nguyên nhiên liệu) giảm theo giá thế giới đã góp phần giúp áp lực giảm nhanh và cuối cùng đạt được kết quả như đã thấy.
Thách thức, áp lực vẫn còn
Tuy nhiên theo các chuyên gia HSBC, áp lực lạm phát vẫn là vấn đề đáng lưu tâm trong năm nay. “Mặc dù xu hướng giảm lạm phát diễn ra trên diện rộng ở Việt Nam, áp lực giá vẫn chưa hoàn toàn mất đi. Rủi ro tăng lạm phát do năng lượng và thực phẩm vẫn còn đó, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam khá nhạy cảm đối với những mặt hàng này do tỷ trọng khá lớn trong rổ tính toán lạm phát. Thêm nữa, chi phí y tế gia tăng cũng là vấn đề cần lưu tâm chặt chẽ”, báo cáo của HSBC nhận định.
Áp lực lạm phát gia tăng cùng với kỳ vọng nền kinh tế đang tiếp tục trên đà phục hồi tốt khiến chuyên gia từ HSBC và Standard Chartered tin rằng, dư địa cho nới lỏng tiền tệ không còn nhiều. Trong đó, HSBC dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 4,5% trong suốt năm 2024. Còn Standard Chartered dự báo lãi suất tái cấp vốn sẽ duy trì ở mức 4,5% cho đến cuối quý III, trước khi tăng 50 điểm cơ bản trong quý IV/2024.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thu Oanh lưu ý, bên cạnh những yếu tố giúp giảm tác động lên mặt bằng giá cả, áp lực vẫn có thể đến từ giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào sản xuất đang ở mức cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp và tạo áp lực tăng giá đối với hàng hóa tiêu dùng. Thêm vào đó, giá hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá các mặt hàng năng lượng, nhiên liệu biến động khó lường, tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể tạo nên các cú sốc cho lạm phát năm 2024. Xung đột Nga - Ukraine, Israel - Hamas và những bất ổn ở biển Đỏ làm ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, chi phí vận chuyển, từ đó có thể sẽ ảnh hưởng đến giá cả nguyên nhiên vật liệu.
Trong nước, điện là mặt hàng rất quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng nên có tác động trực tiếp khá lớn tới lạm phát. Năm 2023, EVN đã điều chỉnh 2 lần giá bán lẻ điện bình quân, tuy nhiên mức điều chỉnh không cao và lần điều chỉnh thứ hai vào cuối năm (tăng 4,5% vào tháng 11) nên tác động rất ít tới CPI năm 2023 nhưng sự tác động có thể sẽ thể hiện rõ ràng hơn trong năm 2024, chưa kể giá điện có khả năng tiếp tục những lần điều chỉnh trong năm nay, từ đó tạo áp lực lên lạm phát.
Ngoài ra, các yếu tố khác như: Giá gạo trong nước dự báo tiếp tục xu hướng tăng theo giá gạo thế giới; việc thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do Nhà nước quản lý theo hướng tính đúng, tính đủ; dự kiến từ 1/7/2024 sẽ thực hiện cải cách tiền lương khu vực Nhà nước, đồng thời lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tăng 6%; giá vật liệu xây dựng có thể tăng lên theo chiều hướng phục hồi của thị trường bất động sản... có thể làm gia tăng kỳ vọng lạm phát.
“Đặc biệt, ngay từ đầu năm 2024 cần xây dựng kế hoạch, tính toán liều lượng và thời điểm điều chỉnh giá các mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản lý (điện, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục) phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Cần sớm lên phương án, lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng để tránh bị động trong phối hợp chính sách”, bà Nguyễn Thu Oanh nói.
Để kiểm soát lạm phát năm 2024, một trong các giải pháp quan trọng là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Đồng thời, theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát trong nước để có các biện pháp ứng phó phù hợp. Cùng với đó, đảm bảo thông suốt hoạt động cung ứng, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ, nhất là đối với xăng dầu và các mặt hàng chiến lược có khả năng bị ảnh hưởng từ sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. |