Nhắc nhở chúng ta nhớ về Bác Hồ và bao thế hệ đi trước
Thưa ông, là một cán bộ lâu năm trong ngành Ngân hàng, ngày kỷ niệm thành lập Ngành (6/5) hàng năm thường gợi nhớ lại trong ông những điều gì?
Trong suốt 47 năm công tác, tôi gắn bó với ngành Ngân hàng hơn 32 năm và ngành Ngân hàng đã trở thành “tổ nghiệp”, cũng là nơi đào tạo, nuôi dưỡng tôi trưởng thành đến ngày hôm nay. Hằng năm, cứ đến tháng 5 lại nhắc nhở chúng ta, những người cán bộ các thế hệ công tác trong ngành Ngân hàng nhớ về Bác Hồ kính yêu của dân tộc, người đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhớ về Cụ Nguyễn Lương Bằng, người Tổng giám đốc đầu tiên của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (5/1951- 4/1952), cùng bao thế hệ đi trước. Chính điều đó đã giúp chúng ta nuôi nấng tâm đức, rèn luyện ý chí, giúp cho mỗi cán bộ, nhân viên ngân hàng trưởng thành và phát triển.
Nguyên Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Văn Giàu trong chuyến công tác tại Quảng Ngãi (3/2009) |
Đặc biệt, tôi luôn nhớ đến sự kiện được xem là dấu ấn đầy tự hào của ngành Ngân hàng. Với cương vị người đứng đầu ngành Ngân hàng Việt Nam, tôi vinh dự được bầu làm Chủ tọa Hội nghị thường niên các thành viên Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Thế giới tháng 10/2009 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ, Chủ tọa Hội nghị thường niên các thành viên Ngân hàng Phát triển Châu Á tháng 4/2011 tại Hà Nội. Việc vinh dự được Hội đồng Thống đốc, các thành viên 3 tổ chức tài chính lớn nhất hành tinh tin tưởng giao trọng trách này và đã chủ tọa thành công các hội nghị thường niên, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu đã mang dấu ấn đi vào lịch sử của ngành Ngân hàng Việt Nam.
Ông có thể chia sẻ những kỷ niệm với các Thống đốc của ngành Ngân hàng?
Tôi được ảnh hưởng rất nhiều bởi 2 đồng chí Lữ Minh Châu và Cao Sỹ Kiêm bởi các giai đoạn ấy tôi có điều kiện tiếp cận công việc ở cương vị cao hơn. Đồng chí Lữ Minh Châu là Thống đốc trong thời kỳ bắt đầu công cuộc Đổi mới chuyển từ cơ chế Kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là thời kỳ chuyển hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp - Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại và chuẩn bị ban hành 2 Pháp lệnh ngân hàng. Đồng chí Lữ Minh Châu là một người giàu ý chí, năng lực luôn tràn đầy năng lượng, dám nghĩ dám làm và con người đạo đức mẫu mực, luôn mềm mại, nhẹ nhàng. Càng tự hào hơn khi chính đồng chí Lữ Minh Châu đã cùng đồng nghiệp viết nên “Huyền thoại con đường tiền tệ”- một trang sử vàng chói lọi của ngành Ngân hàng trong giai đoạn tập trung thực hiện công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Với nguyên Thống đốc Cao Sỹ Kiêm là người đứng đầu ngành Ngân hàng gần 2 nhiệm kỳ ở giai đoạn hình thành mô hình và hệ thống chính sách mới của Ngân hàng Nhà nước và hệ thống các TCTD, người đề xuất các chính sách, biện pháp kiểm soát được lạm phát phi mã từ 3 con số xuống 2 con số và xuống chỉ còn một con số, người quyết tâm mở cửa trong ngành Ngân hàng. Theo đó cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cho phép thành lập ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, cổ phần nông thôn và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân. Thống đốc Cao Sỹ Kiêm là một tấm gương sáng về tính năng động, sáng tạo, đổi mới, kiên nhẫn, kiên trì và tính cách quyết đoán mạnh mẽ, tấm gương sáng về đạo đức…
Ông có thể kể một vài kỷ niệm đáng nhớ nhất khi công tác trong Ngành, đặc biệt là khi đảm nhận chức vụ Tư lệnh ngành Ngân hàng.
Kỷ niệm đánh dấu làm thay đổi cuộc đời và sự nghiệp của tôi là trước bối cảnh người sản xuất thiếu vốn trầm trọng, tình hình cho vay nặng lãi lan rộng khắp nông thôn, sau khi xin ý kiến lãnh đạo tỉnh, tôi chủ trì cùng các đồng nghiệp tại Agribank An Giang thí điểm chính sách cho vay trực tiếp hộ sản xuất từ cuối năm 1989 đến năm 1990. Sau khi được các cấp đánh giá thành công, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề xuất Chính phủ cho phép triển khai thí điểm chính sách này trong phạm vi cả nước bằng Chỉ thị 202 ngày 28/6/1991 và trở thành chính sách lớn của Đảng, Nhà nước cho đến ngày hôm nay. Với thành công từ chính sách cho vay trực tiếp hộ sản xuất, cuối năm 1991 tôi được điều động về Agribank Trung ương. Cuối năm 1997, khi về nhận nhiệm vụ tại Ngân hàng Nhà nước, tôi được phân công chỉ đạo hình thành 2 nghiệp vụ mới phù hợp với quá trình đổi mới và hội nhập theo các chuẩn mực, thông lệ Ngân hàng Trung ương các nước. Đồng thời khắc phục được bất cập trong hoạt động ngân hàng Trung ương như hình thành nghiệp vụ thị trường mở (OMO) đi vào hoạt động tháng 7/2000 và đưa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng vào hoạt động tháng 5/2001.
Nguyên Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cùng đoàn công tác kiểm tra hỗ trợ lãi suất giúp doanh nghiệp tại 8 tỉnh thành từ Đà Nẵng đến Bình Thuận (3/2009) |
Nhiệm kỳ tôi được giao nhiệm vụ người đứng đầu ngành Ngân hàng là thời kỳ nhiều biến động. Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới - WTO. Việc gia nhập WTO mở ra cơ hội mới và đồng nghĩa với thị trường được mở rộng, cắt giảm được nhiều rào cản, thúc đẩy khai thác nội lực và tranh thủ ngoại lực tạo động lực mới cho tăng trưởng nhanh. Năm 2007, tăng trưởng kinh tế nước ta đạt 8,48% so với năm 2006 và đạt cao nhất trong giai đoạn đó. Nhưng ngay năm sau đó, diễn biến nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu - cuộc khủng hoảng được ví như Đại khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Để ứng phó và hạn chế tác động xấu của cuộc khủng hoảng vào nền kinh tế nước ta, Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các bộ, ngành liên quan điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả và phải đạt các mục tiêu: kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dương và đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD. Mặc dù còn một số bất cập do nội lực và tác động xấu của khủng hoảng, nhưng nước ta đã đạt thành tích tăng trưởng kinh tế dương. Năm 2008 tăng trưởng 6,18%.; 2009: 5,32%; 2010: 6,78% và 2011: 5,7%. Thời gian đó, Việt Nam thuộc nhóm 10 quốc gia tăng trưởng kinh tế dương cao nhất thế giới.
Tôi cũng có một kỷ niệm không bao giờ quên. Lúc ấy, diễn biến kinh tế mau lẹ và phức tạp, các thành viên Chính phủ được phân công thường xuyên đi kiểm tra, đôn đốc, xử lý khó khăn, vướng mắc tại các địa phương. Với tư cách người đứng đầu ngành Ngân hàng, tôi đã dành nhiều thời gian đi kiểm tra trong hệ thống, trong đó có chuyến công tác kiểm tra hỗ trợ lãi suất giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn do ảnh hưởng từ khủng hoảng. Chuyến công tác “tốc hành” có thể gọi là lịch sử khi chỉ trong vòng 96 giờ, chúng tôi vừa di chuyển vừa làm việc với 8 tỉnh thành từ Đà Nẵng đến Bình Thuận. Đi suốt đêm ngày, ăn nghỉ vội vàng và tất cả không than vãn mà rất hăng say vì công việc.
Mặc dù nghỉ hưu, nhưng hẳn ông vẫn theo dõi tình hình phát triển kinh tế của đất nước và hoạt động của ngành Ngân hàng. Cảm nhận và chia sẻ của ông?
Ở mỗi giai đoạn lịch sử đều xuất hiện cả mặt thuận lợi, cơ hội, đi liền theo đó cũng xuất hiện nhiều thách thức, khó khăn, đồng thời diễn biến tình hình thế giới cũng xảy ra không theo chu kỳ hoặc theo một quy luật nào, biến động bất thường khó dự đoán, khó lường. Chúng ta đã biết, chưa đầy 30 năm nhưng thế giới đã xảy ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực năm 1997, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2010, khủng hoảng y tế 2019-2023, xung đột chính trị, quân sự Nga - Ucraine từ tháng 2/2022 đến nay. Những bất ổn trên làm đảo lộn, xáo trộn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới và mỗi quốc gia. Việt Nam là nước đang phát triển từ nền kinh tế chuyển đổi và đang trong quá trình thực hiện 3 đột phá chiến lược, tôi rất quan tâm một số khía cạnh cho quá trình phát triển đối với ngành Ngân hàng: Thứ nhất, mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường bao gồm cả thể chế riêng trong lĩnh vực ngân hàng để đạt được tính ổn định, đầy đủ và đồng bộ với hệ thống pháp luật trong nước đồng thời tương thích và phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thứ hai, sức mạnh nền kinh tế tuỳ thuộc sức khỏe của doanh nghiệp và người dân. Vấn đề lo lắng nhất là nguồn vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phần lớn dựa vào vốn vay từ các TCTD. Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng thấp, vốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu chưa nhiều, còn nhiều rào cản. Thứ ba, sự phát triển không đồng đều giữa các TCTD cả về quy mô mạng lưới, tài sản, nguồn vốn hoạt động, trình độ áp dụng công nghệ, trình độ nhân viên, trình độ quản trị, sản phẩm, dịch vụ và cả tính minh bạch. Thứ tư, việc xử lý các TCTD yếu kém, kéo dài có thể phát sinh thêm hệ lụy về tài chính, tài sản. Thứ năm, việc Đảng ta đẩy mạnh công cuộc phòng chống tham nhũng những năm gần đây đã phát hiện và xử lý nhiều vụ án không có vùng cấm làm nức lòng dân, được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân, nhưng theo đó các vụ án kinh tế ngày càng nhiều, quy mô tài sản lớn và vay nhiều TCTD, có quan hệ tài sản, tài chính nhiều doanh nghiệp liên quan. Tôi tin Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã và sẽ có những quyết sách xử lý tình huống cụ thể, toàn diện để kiểm soát và phát triển ổn định, bền vững trong chiến lược dài hạn.
Trân trọng cảm ơn ông đã dành thời gian trao đổi và chia sẻ với xu vàng 777 !