Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 9-13/10
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 11/10 Điểm lại thông tin kinh tế ngày 12/10 |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Tháng 9/2023, lượng phát hành trái phiếu chính phủ giảm so với tháng trước đó, tuy nhiên lũy kế 9 tháng, giá trị này tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2022.
Theo thông tin từ HNX, trong tháng 9/2023, HNX đã tổ chức 18 đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành với tổng khối lượng trúng thầu đạt 19.370 tỷ đồng, tỷ lệ trúng thầu thành công đạt 75,22%, giảm 11,07% so tháng 8 (tháng 8/2023, HNX tổ chức 20 đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành với tổng khối lượng trúng thầu đạt 21.782 tỷ đồng).
Kho bạc Nhà nước phát hành thành công khoảng 75.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ trong quý 3, tương đương khối lượng trúng thầu của quý 2, tỷ lệ trúng thầu đạt 88%. Tính đến hết tháng 9/2023, Kho bạc Nhà nước đã huy động thành công 255.000 tỷ đồng, đạt 62,47% kế hoạch phát hành của năm 2023 và tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2022, Kho bạc Nhà nước huy động được khoảng 114.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ). Với khối lượng đáo hạn quý 3 là 24.000 tỷ đồng, Kho bạc Nhà nước đã phát hành ròng 51.000 tỷ trong quý vừa qua; lũy kế 9 tháng, lượng phát hành ròng là 205.000 tỷ đồng.
Về lãi suất huy động, kỳ hạn 5 năm có lãi suất huy động giảm nhẹ qua các phiên trong tháng 9/2023 với mức giảm 7 đcb so với phiên cuối cùng của tháng 8. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm, 15 năm và 30 năm tiếp tục giữ ổn định trong 2 tháng gần đây, với lãi suất các kỳ hạn 5 năm, 10 năm, 15 năm và 30 năm trúng thầu tại các phiên cuối cùng trong tháng 9 của lần lượt là 1,63%; 2,36%; 2,59% và 3,05%.
Theo HNX, tính đến 30/9/2023, giá trị niêm yết trái phiếu chính phủ tại HNX đạt 1.898.855 tỷ đồng, tăng 12,63% so với cuối năm 2022.
Trên thị trường thứ cấp, giá trị giao dịch trái phiếu chính phủ theo phương thức thông thường (outright) đạt hơn 109.658 tỷ đồng, giao dịch mua bán lại (repos) đạt gần 31.630 tỷ đồng trong tháng 9. Giá trị giao dịch bình quân phiên trong tháng đạt hơn 7.436 tỷ đồng, tăng 27,55% so với tháng trước. Giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 3.464 tỷ đồng giảm 10,26% so với tháng trước.
Lợi suất trái phiếu chính phủ chốt phiên 29/9 giảm ở hầu hết các kỳ hạn so với cuối quý II và càng cho thấy mức giảm lớn khi so với đầu năm. Cụ thể, so với đầu năm, lợi suất các kỳ hạn giảm từ 1,90 - 2,78 điểm phần trăm. Trong đó, kỳ hạn 10 năm đứng ở mức 2,68%, giảm 2,05 điểm phần trăm so với đầu năm. Tuy nhiên, tuần cuối quý III, lợi suất đi lên ở một số kỳ hạn, trong đó kỳ hạn 10 năm tăng 0,08 điểm phần trăm so với tuần trước đó.
Theo thông báo từ đầu năm của Kho bạc Nhà nước, kế hoạch huy động trái phiếu chính phủ năm 2023 của Kho bạc Nhà nước là 400.000 tỷ đồng. Như vậy, từ tháng 10 đến cuối năm còn khoảng 145.000 tỷ đồng cần được huy động nếu muốn hoàn thành kế hoạch. Khi hoạt động giải ngân đầu tư công được đẩy mạnh ở quý IV, Kho bạc Nhà nước sẽ chịu áp lực tăng phát hành trái phiếu chính phủ, đồng nghĩa với việc tăng lãi suất phát hành trên thị trường sơ cấp trong 3 tháng cuối năm để thu hút các nhà đầu tư.
Tin trong nước
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 9-13/10, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng - giảm nhẹ đan xen qua các phiên. Chốt ngày 13/10, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.077 VND/USD, chỉ tăng 3 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD, trong khi giá bán USD ngay phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 25.230 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá đô - đồng liên ngân hàng biến động theo xu hướng tăng trong tuần qua. Kết thúc phiên 13/10, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.450 VND/USD, tiếp tục tăng 80 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô - đồng trên thị trường tự do ít biến động trong tuần qua. Chốt phiên 13/10, tỷ giá tự do tăng 70 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 24.570 VND/USD và 24.620 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 9-13/10, mặc dù đã tăng trở lại vào cuối tuần, lãi suất VND liên ngân hàng vẫn giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống. Chốt ngày 13/10, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 0,40% (-0,82 điểm phần trăm); 1 tuần 0,60% (-0,84 điểm phần trăm); 2 tuần 0,82% (-0,84 điểm phần trăm); 1 tháng 1,28% (-0,66 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng dao động tăng - giảm nhẹ ở tất cả các kỳ hạn. Phiên cuối tuần 13/10, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,10% (+0,02 điểm phần trăm); 1 tuần 5,21% (+0,03 điểm phần trăm); 2 tuần 5,28% (+0,02 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,36% (không thay đổi).
Thị trường mở tuần từ 9-13/10, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 5.000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố.
NHNN tiếp tục chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 64.999,60 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu, lãi suất phiên thứ Sáu ở mức 0,95% (-0,33 điểm phần trăm so với cuối tuần trước đó).
Như vậy, NHNN hút ròng 64.999,60 tỷ đồng từ thị trường, đưa khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường lên mức gần 205.700 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu ngày 9/10, Ngân hàng Chính sách xã hội chào thầu 2.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh, khối lượng trúng thầu là 1.500 tỷ đồng, tương đương 60%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm trúng thầu toàn bộ 1.500 tỷ đồng chào thầu với lãi suất 2,5% (không đổi so với tuần trước). Kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, tuy nhiên không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn này.
Ngày 11/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 4.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, khối lượng trúng thầu là 4.000 tỷ đồng, tương đương 89%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 500 tỷ đồng chào thầu; kỳ hạn 10 năm huy động được toàn bộ 1.500 tỷ đồng chào thầu và kỳ hạn 15 năm huy động được toàn bộ 2.000 tỷ đồng chào thầu. Kỳ hạn 20 năm gọi thầu 500 tỷ đồng, tuy nhiên không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại 5 năm 1,64% (-0,01 điểm phần trăm), 10 năm 2,38% (+0,02 điểm phần trăm), 15 năm 2,61% (+0,02 điểm phần trăm).
Trong tuần này, ngày 16/10, Ngân hàng Chính sách xã hội chào thầu 2.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh, trong đó, kỳ hạn 5 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn. Ngày 18/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm chào thầu 2.000 tỷ đồng và 30 năm chào thầu 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 6.745 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 4.727 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua biến động tăng giảm nhẹ đan xen qua các phiên ở hầu hết các kỳ hạn.
Chốt phiên 13/10, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,75% (không đổi); 2 năm 1,76% (+0,01 điểm phần trăm); 3 năm 1,77% (+0,02 điểm phần trăm); 5 năm 1,78% (+0,03 điểm phần trăm); 7 năm 2,52% (-0,02 điểm phần trăm); 10 năm 2,85% (-0,02 điểm phần trăm); 15 năm 3,04% (+0,01 điểm phần trăm); 30 năm 3,22% (+0,03 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần từ 9-13/10 kiên trì nhích nhẹ qua tất cả các phiên. Chốt phiên 13/10, VN-Index đứng ở mức 1.154,73 điểm, tăng 26,19 điểm (+2,32%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index thêm 8,60 điểm (+3,73%) lên 239,05 điểm; UPCoM-Index cộng 0,70 điểm (+0,80%) đạt mức 87,90 điểm.
Thanh khoản thị trường vẫn ở mức thấp với giá trị giao dịch trung bình gần 15.800 tỷ đồng/phiên, thấp hơn mức khoảng 16.400 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh gần 2.400 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) cập nhật dự báo triển vọng kinh tế thế giới 2023 và 2024. Trong báo cáo công bố ngày 10/10, IMF dự báo GDP toàn cầu tăng 3,0% trong năm 2023 (không thay đổi so với dự báo tháng Bảy), và sẽ tăng 2,9% trong năm 2024 (-0,1 điểm phần trăm).
Như vậy, nền kinh tế toàn cầu sẽ giảm tốc trong cả năm nay và năm tới so với mức tăng 3,5% đã đạt được trong năm 2022. Đối với các quốc gia phát triển, Mỹ được dự báo tăng 2,1% trong năm nay (+0,3 điểm phần trăm) và 1,5% ở năm sau (+0,5 điểm phần trăm); Eurozone lần lượt tăng 0,7% (-0,2 điểm phần trăm) và 1,2% (-0,3 điểm phần trăm); Nhật Bản tăng 2,0% (+0,6 điểm phần trăm) và 1,0% (không đổi); Anh tăng 0,5% (+0,1 điểm phần trăm) và 0,6% (-0,4 điểm phần trăm). Về các quốc gia đang phát triển, Trung Quốc được dự báo tăng 2,0% trong năm nay (-0,2 điểm phần trăm) và tăng 4,2% ở năm tới (-0,3 điểm phần trăm). Nhóm ASEAN5 (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan) lần lượt tăng 4,2% (-0,4 điểm phần trăm) và 4,5% (không đổi).
Về lạm phát, IMF dự báo chỉ số giá tiêu dùng toàn cầu tăng 6,9% trong năm nay (+0,1 điểm phần trăm), sau đó hạ nhiệt còn 5,8% ở năm 2024 (+0,6 điểm phần trăm).
Theo chuyên gia kinh tế trưởng Pierre Olivier Gourinchas của IMF, kinh tế toàn cầu vẫn đang nỗ lực phục hồi từ sau đại dịch Covid-19 và ảnh hưởng từ cuộc chiến tranh Nga - Ukraine. Nhìn chung, có thể thế giới sẽ đạt được hạ cánh mềm, nhưng vẫn còn đó rủi ro liên quan đến cuộc khủng hoảng bất động sản ở Trung Quốc. Những ảnh hưởng từ cuộc chiến giữa Israel và Palestine vừa diễn ra cũng chưa được tính đến trong dự báo này, do thời điểm chốt dữ liệu là vào ngày 26/9.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố biên bản cuộc họp tháng Chín, đồng thời nước Mỹ cũng ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế quan trọng. Trong biên bản cuộc họp tháng Chín công bố tuần qua, Ủy ban chính sách tiền tệ Liên bang (FOMC) nhận định kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng khá nhanh trong quý III. Thị trường lao động tiếp tục ở trạng thái thắt chặt với tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. Tăng trưởng việc làm dù giảm tốc nhưng luôn mạnh mẽ. Lạm phát tiêu dùng vẫn duy trì ở mức cao.
Cơ quan này khẳng định mục tiêu toàn dụng nhân công và đưa lạm phát về mức 2,0% trong dài hạn. Theo đó, FOMC quyết định duy trì lãi suất chính sách ở mức 5,25% - 5,50%, không thay đổi so với cuộc họp trước. FOMC sẽ tiếp tục đánh giá mức độ tích lũy của chính sách tiền tệ thắt chặt lên nền kinh tế và lạm phát để đưa ra các quyết định tiếp theo.
Liên quan đến kinh tế Mỹ, đầu tiên, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi của nước này lần lượt tăng 0,4% và 0,3% so với tháng trước trong tháng Chín, nối tiếp đà tăng 0,6% và 0,3% của tháng Tám, gần khớp với dự báo cùng tăng 0,3%. So với cùng kỳ năm 2022, CPI toàn phần Mỹ tăng 3,7% trong tháng vừa qua, bằng với mức tăng của tháng Tám và CPI lõi tăng 4,1%, hạ nhiệt nhẹ so với mức tăng 4,3% ở tháng Tám.
Chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần và PPI lõi tại nước này lần lượt tăng 0,5% và 0,3% so với tháng trước trong tháng Chín sau khi tăng 0,7% và 0,2% ở tháng trước đó, cùng cao hơn so với mức tăng 0,3% và 0,2% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2022, PPI toàn phần và PPI lõi lần lượt tăng 2,2% và 2,8%.
Tiếp theo, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 7/10 ở mức 209 nghìn đơn, không thay đổi so với tuần trước đó và trái với dự báo tăng nhẹ lên 211 nghìn đơn. Cuối cùng, niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Đại học Michigan khảo sát ở mức 63,0 điểm trong tháng 10, giảm xuống từ 68,1 điểm của tháng Chín và đồng thời thấp hơn dự báo ở mức 67,2 điểm.