Hai kịch bản tăng trưởng GDP và lạm phát năm 2024
GDP năm 2024: Hướng tới mục tiêu 7% Động lực mới cho tăng trưởng về chất |
Các nhân tố tác động tới tăng trưởng và lạm phát
Qua số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) các tháng đầu năm so với tháng trước tăng thấp, trừ tháng 01/2024 có mức tăng 0,31%, tháng 02/2024 có mức tăng đến 1,04% do đây là thời điểm mua sắm dịp Tết Nguyên đán. Bình quân mỗi tháng mức tăng chỉ số CPI là 0,23%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, CPI bình quân tăng 4,08% so với cùng kỳ năm 2023. Chỉ số lạm phát cơ bản bình quân trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 2,75% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,08%), chủ yếu do giá lương thực, điện, dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Có thể nói, nửa đầu năm 2024, CPI kiểm soát như mục tiêu đề ra do sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc quản lý thị trường tài chính tiền tệ; sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời, đồng bộ và quyết liệt của các cơ quan quản lý giá cả và cơ quan quản lý thị trường, tránh các đợt tăng giá sốc vào một số thời điểm nhạy cảm.
Bước sang nửa cuối năm 2024, các nhân tố gây thách thức và tạo thuận lợi cho công tác kiểm soát lạm phát của Việt Nam đan xen, gồm các yếu tố khách quan do tác động từ nền kinh tế thế giới và cả các tác nhân từ nội tại nền kinh tế.
Trước hết, lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm thấp nhưng vẫn còn ở mức tương đối cao, dự báo khoảng 5,8%, có thể làm nền kinh tế Việt Nam nhập khẩu lạm phát. So với cùng kỳ năm trước lạm phát của Mỹ tháng 5/2024 tăng 3,3%; khu vực đồng Euro tăng 2,6%; Pháp tăng 2,3%... Tại châu Á, so với cùng kỳ năm trước lạm phát tháng 5/2024 của Lào tăng 25,77%; Ấn Độ tăng 4,75%; Hàn Quốc tăng 2,7%... Điều này có thể sẽ gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn và làm cho tốc độ phục hồi kinh tế chậm lại.
Ngoài ra, những cú sốc về nguồn cung có thể làm tăng giá hàng hóa, đặc biệt là gián đoạn nguồn cung dầu và các nguyên liệu do xáo trộn địa chính trị trên biển Đỏ và cuộc chiến Nga-Ukraine có thể tác động dai dẳng đến thị trường toàn cầu. Do Việt Nam là quốc gia có độ mở cửa hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới và mức độ nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất chiếm tới 37% nên khả năng nhập khẩu lạm phát rất lớn.
Thứ hai, hoạt động du lịch, dịch vụ và hoạt động xuất nhập khẩu trong quý 3 và 4/2024 có xu hướng tiếp tục tăng cao sẽ có thể đẩy lạm phát tăng cao. Tính chung 06 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 15,2% và doanh thu du lịch lữ hành tăng 37,1%.,,
Thứ ba, việc vốn đầu tư công tăng cao đến 657.349 tỷ đồng trong năm 2024 và quyết tâm giải ngân 90% - 95% trong năm 2024 của Chính phủ sẽ đưa một khối lượng vốn hơn 600.000 ngàn tỷ ra thị trường. Đây sẽ là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng GDP, cũng là áp lực lớn tăng giá nhiều loại vật tư nguyên liệu, hàng hóa liên quan đến đầu tư công của nền kinh tế, gây áp lực tăng lạm phát.
Thứ tư, ngày 30/6/2024 Chính phủ ban hành Nghị định 73/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Theo đó, thay cho mức 1,8 triệu đồng/tháng như trước đây, từ ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng. Đồng thời, căn cứ trên đề xuất của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ngày 30/6, Chính phủ ban hành Nghị định 74/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 tăng 6% lương tối thiểu tháng và giờ. Đây sẽ là nhân tố gây sức ép tăng cung tiền và tăng áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024. Tuy nhiên, mức tăng lương này chỉ được áp dụng với dưới 8% lực lượng lao động trong nền kinh tế nên tác động không quá lớn đến mặt bằng giá cả và lạm phát. Trong khi đó, Quốc hội, Chính phủ có chính sách giảm 2% thuế giá trị gia tăng cho nhiều mặt hàng; giảm 36 loại phí, lệ phí; giảm tiền thuê đất… có thể làm mặt bằng giá cả của nền kinh tế giảm thấp.
Nhiều yếu tố hỗ trợ tăng trưởng và kiểm soát lạm phát
Trong bối cảnh lạm phát toàn cầu hạ nhiệt, dù hoạt động thương mại quốc tế chưa phục hồi mạnh mẽ song tăng trưởng kinh tế thế giới có xu hướng tích cực hơn trước, nhờ nhu cầu hàng hóa tăng trở lại, giá trung bình của hàng hóa giảm nhờ nguồn cung được cải thiện khiến áp lực lạm phát giảm dần.
Các tổ chức quốc tế đưa ra những dự báo lạc quan hơn về kinh tế thế giới năm 2024, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu với mức tăng từ 0,1 - 0,3 % so với các dự báo đưa ra trong tháng 01/2024. Đến thời điểm tháng 6/2024, Liên hợp quốc (UN) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới đạt 2,7%, cao hơn 0,3% so với dự báo tháng 01/2024; WB nhận định tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, cao hơn 0,2% so với dự báo tại thời điểm tháng 01/2024; Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo kinh tế thế giới tăng 3,2%, cao hơn 0,1% so với dự báo trong tháng 01/2024… Kinh tế thế giới phát triển tạo cơ hội cho xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tốt hơn, tạo đà tăng trưởng GDP cao hơn.
Thực tế cho thấy các đơn đặt hàng xuất khẩu mới trong lĩnh vực sản xuất tiếp tục tăng lên. Về đơn đặt hàng xuất khẩu, trong quý 2/2024 có 28,8% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn so với quý 1/2024; 49,6% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định và 21,6% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm. Về xu hướng quý 3/2024 so với quý 2/2024, có 33,1% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 50,6% số doanh nghiệp dự kiến ổn định và 16,3% số doanh nghiệp dự kiến giảm. Khả năng tăng xuất khẩu trong các tháng cuối năm có chiều hướng tốt lên sẽ giúp đẩy mạnh sản xuất và tăng nguồn thu ngoại tệ, giảm áp lực tỷ giá, giảm lạm phát các tháng cuối năm. Bên cạnh đó, giá của nhiều mặt hàng nguyên nhiên, vật liệu đầu vào cho sản xuất có thể giảm xuống khi nền kinh tế tiếp tục hồi phục chậm chạp và nhu cầu toàn cầu chưa cao.
Ở trong nước, để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nền kinh tế hồi phục và phát triển, thời gian gần đây, Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều chính sách miễn, giảm nhiều loại thuế, phí, lệ phí cho các doanh nghiệp, từ đó góp phần giảm sức ép tăng giá các hàng hóa trong nền kinh tế. Ngoài ra, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 06 tháng đầu năm 2024 ước đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 06 tháng đầu năm trong 5 năm qua. Khả năng vốn FDI sẽ tiếp tục được giải ngân tăng cao trong nửa cuối năm 2024 cũng sẽ là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng GDP và có thể giúp tỷ giá VND so với các ngoại tệ bớt căng thẳng.
Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng và kìm giữ lạm phát xuống mức thấp nhất
Đến thời điểm hiện tại, với các chỉ số tăng trưởng GDP quý 1 đạt 5,66% và quý 2 đạt 6,93%, kịch bản trong 6 tháng cuối năm 2024 sẽ theo phương án 2. Đó là nếu giá dầu và nguồn cung nguyên vật liệu ổn định, lạm phát của các nền kinh tế lớn vẫn ở mức cao, kinh tế thế giới phục hồi tốt hơn dự báo, các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do, kinh tế Việt Nam năm 2024 có thể tăng trưởng ở mức 6,3 - 7% với mức lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 3,5 - 3,8%.
Về giải pháp, để có thể đạt tốc độ tăng trưởng GDP và giữ chỉ số CPI ở mức dưới 4,5% như chỉ tiêu của Quốc hội đề ra và tìm cách ổn định thị trường tài chính tiền tệ để tiếp tục hạ thấp tỷ lệ lạm phát cần thực hiện tốt một số biện pháp.
Một là, tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phục hồi và phát triển bền vững của nền kinh tế. Tăng trưởng GDP quý 1 đạt 5,66%, quý 2 năm 2024 tăng 6,93% so với cùng kỳ năm trước, đây là tốc độ tăng tương đối cao trong nhiều năm. Với đà tăng trưởng kinh tế tiếp tục được củng cố, đây là nhân tố hỗ trợ đắc lực cho việc giữ ổn định nền kinh tế, củng cố niềm tin cho người dân và doanh nghiệp.
Hai là, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo dõi sát tình hình biến động của nền kinh tế thế giới và thị trường tài chính – tiền tệ, chủ động điều hành linh hoạt lãi suất, công cụ thị trường mở, tỷ giá hối đoái phù hợp ổn định và nâng cao giá trị đồng Việt Nam, góp phần kiểm soát lạm phát cơ bản để làm cơ sở cho việc giữ chỉ số CPI.
Ba là, Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình thức, phương thức huy động vay nợ công để vừa đảm bảo kích thích nền kinh tế hồi phục, phát triển nhanh, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng trả nợ vay và sự ổn định và phát triển trong dài hạn của nền kinh tế. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, Tổng cục quản lý thị trường (Bộ Công Thương) và Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng tăng giá theo tăng lương của một số chủ thể, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, hàng hóa do Nhà nước quyết định, đặc biệt trong thời điểm sau 01/07/2024 khi việc tăng lương cơ sở được thực hiện.
Năm là, việc tăng giá điện, nước, giá dịch vụ y tế, giáo dục thực hiện tăng theo lộ trình của Chính phủ cần tính toán thời gian, mức độ phù hợp, tránh dẫn tới áp lực làm tăng sức ép lạm phát.
Sáu là, Chính phủ và các Bộ: Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần có sự theo dõi chặt chẽ về sự biến động trên cả thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường ngoại tệ và thị trường vàng, có các biện pháp xử lý kịp thời.
Bảy là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá, thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch các thông tin về giá. Đặc biệt đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, tránh lạm phát kỳ vọng, các tin đồn thất thiệt gây hoang mang tâm lý, ảnh hưởng xấu tới mặt bằng giá cả của một số mặt hàng và cả nền kinh tế.
Đồng thời, cần có cơ chế theo dõi, quản lý giá thường xuyên giữa các cơ quan có liên quan và có chế tài xử lý nghiêm khắc đối với trường hợp vi phạm để những chỉ đạo của Chính phủ, Bộ, ngành phải được các doanh nghiệp và tầng lớp dân cư thực thi một cách toàn diện và nghiêm túc.