Tốc độ tăng thu thuế tương đương với tốc độ tăng của GDP
Thông tin đáng chú ý vừa được đưa ra tại Hội thảo công bố kết quả Nghiên cứu “Phân tích cấu trúc, xu hướng và gánh nặng thuế tại Việt Nam: Hướng tới một hệ thống thuế công bằng” ngày 16/12 do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức.
Tỷ trọng thu thuế/GDP của Việt Nam cao nhất ASEAN
PGS.TS Phạm Thế Anh - Trưởng nhóm Nghiên cứu cho biết, từ năm 2006 tỉ trọng thu thuế trong tổng thu ngân sách của Việt Nam giữ vững ở mức trên 80%. Ngoại trừ trong vài năm gần đây, tỉ trọng này giảm xuống còn 75% do thu từ phí, lệ phí và các nguồn thu không phải từ thuế tăng một cách tương đối trong cơ cấu thu ngân sách.
Theo các chuyên gia, thuế TNCN dù đã tăng trưởng mạnh nhưng vẫn đóng góp khiêm tốn trong tổng thu ngân sách |
“Tốc độ tăng thu thuế là tương đương với tốc độ tăng của GDP. Kể từ năm 2011 tỉ lệ thuế trên GDP của Việt Nam ổn định ở mức xung quanh 18%” – theo kết quả nghiên cứu.
Nghiên cứu cũng cho thấy, tỉ trọng của thuế trực thu đã giảm liên tục trong giai đoạn 2012-2017, từ 44.6% năm 2012 xuống chỉ còn 33.8% năm 2017. Điều này phần nào làm giảm đi tính lũy tiến của hệ thống thuế tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2018-2019, số liệu ước tính của Bộ Tài chính cho thấy tỉ trọng của thuế trực thu có xu hướng tăng trở lại, ước đạt 38.9% năm 2019. Còn lại là VAT và thuế bảo vệ môi trường chỉ chiếm 39% trong năm 2019, tương đương với con số 38% của thuế trực thu…
Thuế TNDN vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất mặc dù đang có xu hướng giảm. Một trong những nguyên nhân chính đó là việc áp dụng ngày càng nhiều các ưu đãi thuế cho khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Ở Việt Nam, thuế TNCN ở Việt Nam dù đã tăng trưởng mạnh nhưng vẫn đóng góp khiêm tốn trong tổng thu ngân sách.
Tỷ trọng của thuế gián thu trong tổng thu thuế ngày càng tăng và đã vượt quá con số 60% vào năm 2016 và chiếm 11% GDP. Thuế GTGT là nguồn thu lớn nhất trong các loại thuế gián thu, chiếm từ 50% đến 60% tổng số thu của thuế gián thu trong giai đoạn 2006-2019.
Ở Việt Nam, vai trò của thuế GTGT càng trở nên quan trọng hơn khi lợi nhuận từ các loại thuế thương mại giảm đi do các hiệp định thương mại trong khu vực cũng như việc thông qua các chuẩn mực tự do hóa thương mại của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Khi nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu giảm, Việt Nam có khuynh hướng tăng nguồn thu thông qua việc mở rộng thuế tiêu thụ đặc biệt (Luật số 27/2008/QH12) và giới thiệu thuế bảo vệ môi trường (Luật số 57/2010/QH12).
Có 10 nhóm hàng hoá và 6 nhóm dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, bao gồm: thuốc lá và xì gà, rượu, bia; xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi, xe máy phân khối, máy bay và du thuyền, xăng các loại; Bài lá, vàng mã và hàng mã; Vũ trường, mát‐xa và karaoke, trò chơi có thưởng và casino, đặt cược, gôn và sổ xố.
Có 8 nhóm mặt hàng chịu thuế bảo vệ môi trường: xăng dầu, than, dung dịch HCFC, túi ni lông, một số loại thuốc diệt cỏ và trừ mối, một số loại thuốc bảo quản lâm sản và một số loại thuốc khử trùng
Nghiên cứu nhận định, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến cho tỉ trọng thu thuế giảm đối với tất cả các nước trong giai đoạn 2007-2009. Sau đó, tỉ lệ thu thuế/ GDP các nước nhìn chung tương đối ổn định.
Đáng chú ý, khi so sánh về tỉ trọng giữ thu thuế và GDP của Việt Nam với các nước ASEAN, PGS.TS Phạm Thế Anh nhấn mạnh: “Việt Nam là nước có thu nhập thấp nhất trong nhóm các nước tương tự trong ASEAN, nhưng tỉ trọng thu thuế/GDP của Việt Nam là cao nhất. Điều này cho thấy gánh nặng thuế tại Việt Nam đang quá lớn và cần có sự thay đổi nhằm thúc đẩy tăng trưởng”.
Ông Phạm Thế Anh phân tích, khi GDP và thu ngân sách tăng, tỉ trọng về thuế thu nhập (bao gồm thuế TNCN và thuế TNDN) trong thu thuế thường tăng, thay thế cho các loại thuế tiêu thụ và thương mại.
“Hiện tại tỉ trọng thu thuế thu nhập ở Việt Nam vẫn còn thấp. Xu hướng cho thấy thuế trực thu vẫn đang tiếp tục giảm về tỉ trọng so với số gián thu. Cải cách thuế cần xây dựng hướng đến việc thu thuế thu nhập một cách hiệu quả hơn thay vì mở rộng cơ sở đối với các loại thuế gián thu”, ông Phạm Thế Anh đề xuất.
Bao giờ ban hành Luật thuế tài sản
Theo chuyên gia kinh tế Bùi Ngọc Sơn (Viện Nghiên cứu thế giới), Dự thảo Luật thuế tài sản lần gần nhất được đưa ra là hồi đầu năm 2018 nhưng ngay sau đó đã bị gác lại.
Đây là loại thuế được các nước trên thế giới thực hiện thu từ rất lâu, mang lại nguồn thu cho ngân sách, có ý nghĩa lớn trong điều hành kinh tế vĩ mô nhưng tại Việt Nam đến thời điểm này loại thuế này vẫn chưa được thực hiện. “Vì sao loại thuế này khó thực thi đến vậy?”, ông Sơn đặt vấn đề.
Lý giải về vấn đề này, TS Nguyễn Ngọc Tuyến, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, Việt Nam chưa có thuế tài sản nhưng đã đánh một số loại thuế liên quan tới tài sản như thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp... Trong vòng 10 năm qua, Bộ Tài chính cũng đã dự thảo thuế tài sản và thảo luận vấn đề này nhưng vẫn chưa ban hành được.
Ông Tuyến cho biết, ở Việt Nam loại thuế này không dễ thu vì sự đồng bộ giữa các Bộ luật là có vấn đề.
Ông Tuyến ví dụ, Luật Đất đai quy định giá đất do Nhà nước ban hành để làm căn cứ xác định giá tính thuế trong hoạt động chuyển nhượng, chuyển đổi, thế chấp, cho tặng… Giá này được công bố trên cơ sở giá thị trường.
“Tuy nhiên, giải thích giá thị trường của đất đai lại không phải như vậy. Ví dụ giá thị trường 1m2 đất ở Hà Nội có nơi là 2 tỷ đồng, có nơi 1 tỷ đồng nhưng khung giá UBND TP Hà Nội lúc cao nhất khoảng 200 triệu đồng. Chênh nhau gần chục lần vậy ban hành luật thuế tài sản thì căn cứ vào giá nào, 200 triệu đồng hay 2 tỷ đồng?”, ông Tuyến dẫn chứng.
Được biết, Luật thuế tài sản đã được đưa ra bàn thảo từ năm 2000. Lần gần đây nhất được đưa bàn luận khi Bộ Tài chính công bố dự thảo Luật thuế tài sản vào đầu năm 2018 với mức khởi điểm đánh thuế tài sản căn nhà là 700 triệu đồng.
Ngoài tài sản là đất, tài sản trên đất, dự thảo này còn đưa ra các loại tài sản khác có giá trị cao cũng là đối tượng điều chỉnh của luật thuế này là: Tàu, thuyền, ô tô…
Tuy nhiên, ngay thời điểm ấy, khi dự thảo vừa được công bố đã gây ra làn sóng tranh luận gay gắt liên quan tới mức giá trị khởi điểm tính thuế, các loại tài sản đánh thuế, sử dụng tiền thuế, vấn đề thuế chồng thuế…
Vì mức độ nhạy cảm và tính tác động rộng rãi tới cả xã hội cũng như những vấn đề đưa ra trong dự thảo thuế này còn gây tranh cãi nên đã bị gác lại.