Xây dựng dữ liệu số tạo nền tảng phát triển tài chính số bền vững
Phát triển thông tin tín dụng hướng tới nền tài chính số Dữ liệu số: Nền tảng phát triển tài chính số bền vững |
Ông Nguyễn Việt Hà, Cục trưởng Cục Tin học và Thống kê tài chính, Bộ Tài chính cho biết, chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính là một trong những yếu tố then chốt để thực hiện chuyển đổi số quốc gia. Bộ Tài chính đã có Quyết định số 777 ban hành kế hoạch hoạt động của Ban chỉ đạo chuyển đổi số năm 2023, trong đó xác định các nhiệm vụ trọng tâm là chỉ đạo thúc đẩy phát triển dữ liệu lớn về tài chính; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính; thực hiện các nền tảng hóa đơn điện tử; nền tảng thuế điện tử; thực hiện rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật để thực hiện các hình thức chống chuyển chuyển giá, chuyển thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế trên các nền tảng số, dịch vụ số, dịch vụ trực tuyến nước ngoài cung cấp xuyên biên giới…
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tài chính số góp phần quan trọng cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính, mang lại lợi ích cho người sử dụng các dịch vụ tài chính, các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, cho Chính phủ và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Dữ liệu là "trái tim" của quá trình chuyển đổi số |
Cũng theo ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Việt Nam đã đề ra các mục tiêu, định hướng để chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, thúc đẩy chuyển đổi số. Để chuyển đổi số thành công thì dữ liệu đóng vai trò rất quan trọng, là "trái tim" của quá trình chuyển đổi số. Vì vậy hiện nay rất nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các chiến lược, kế hoạch hành động ở tầm quốc gia và các ngành, lĩnh vực để phát triển dữ liệu…
Về huy động nguồn lực tài chính quốc gia cho phát triển bền vững dựa trên dữ liệu số đến năm 2030, bà Nguyễn Thanh Nga, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho biết, về cơ bản, có ba nguồn chính là: nguồn lực tài chính công; phát triển thị trường tài chính trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế, đồng thời cũng thực hiện các khuyến khích xã hội hóa trong một số lĩnh vực; huy động từ bên ngoài thông qua đa dạng các kênh huy động bao gồm đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, nguồn vốn ODA hoặc phát hành trái phiếu quốc tế .
Nhấn mạnh vai trò của dữ liệu trong quản lý thuế, bà Nga cho biết, khi hệ thống dữ liệu sẽ được số hóa sẽ không chỉ giúp cải cách thủ tục hành chính; huy động, quản lý, giám sát nguồn thu, hiệu quả, giảm gian lận về thuế thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu và các công cụ phân tích dữ liệu…, mà còn tạo một công cụ phân tích đắc lực trong xây dựng chính sách thu-chi.
Ngoài ra, khi hệ thống dữ liệu số được khai thác, vận hành hiệu quả cũng sẽ giúp tạo thuận lợi cho người nộp thuế trong công tác kiểm tra, giám sát các quy định thuế đối với lĩnh vực hải quan; cơ sở dữ liệu sẽ hỗ trợ cho hệ thống hải quan tự động, tạo thuận lợi cho thương mại hóa. Các biểu mẫu chứng từ, chuyển hóa dữ liệu, đơn giản hóa và tin học hóa… sẽ giúp đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa.
Sau khi phân tích những những khó khăn, thách thức khi triển khai dữ liệu số trong công tác quản lý thu ngân sách, bà Nga cho rằng, thời gian tới, dữ liệu số sẽ tiếp tục nắm vai trò quan trọng trong cải cách hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý của ngành tài chính, đặc biệt là công tác quản lý thu ngân sách nhà nước.
Vì vậy, để số hóa dữ liệu trong công tác huy động nguồn lực tài chính thành công, đầu tiên cần thể chế hóa các công tác quản trị thu thập, kết nối, lưu trữ, chia sẻ và phân tích dữ liệu, bảo mật thông tin... Trong đó cần rà soát, ban hành các quy định nhằm giải quyết những bất cập về kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các bộ, cơ quan và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn chia sẻ thông tin của cơ chế một cửa Quốc gia.
Thứ hai là xây dựng và triển khai đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính.
Thứ ba là đánh giá tổng hợp, xây dựng tổng kho dữ liệu của cơ quan thuế, hải quan phục vụ quá trình thực hiện nghiệp vụ thuế, hải quan, đánh giá tình hình thu ngân sách, thông tin thương mại, thuế quan và rủi ro trong thu nộp thuế.
Thứ tư, trên cơ sở dữ liệu đã có, cần đánh giá để phát huy tính hiệu quả của hệ thống.
Thứ năm là nghiên cứu triển khai các giải pháp kỹ thuật, công nghệ để thực hiện số hóa, kết nối, thu thập, xử lý dữ liệu.
Thứ sáu, tăng cường thực hiện việc trao đổi, kết nối và chuyển đổi số với các dữ liệu từ hệ thống thông tin một cửa quốc gia với hệ thống xử lý dữ liệu của ngành và phối hợp giữa các bộ, ngành để chuẩn hóa quy trình, nghiệp vụ rà soát các danh mục chứng từ, văn bản, thủ thủ tục hành chính chuyên ngành. Trên cơ sở dữ liệu quốc gia, cần đảm bảo tính thống nhất.
Ngoài ra cần hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp và các bên liên quan đẩy mạnh việc kết nối, trao đổi thông tin, chia sẻ dữ liệu với hệ thống công nghệ thông tin của cơ quan thuế, hải quan và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về thuế, hải quan, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục thuế…