Phối hợp chính sách hài hòa để giảm áp lực lạm phát
Áp lực không lớn nhưng gia tăng
Liên tiếp trong các tháng trở lại đây, CPI luôn tăng xung quanh ngưỡng 4%. Cụ thể, CPI tháng 4/2024 tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 4 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,93%. Trước đó, CPI tháng 3 tăng 3,97%; CPI quý I tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước. Nếu nhìn lại năm 2023, lạm phát cũng khá cao vào những tháng đầu năm, nhưng đã liên tục hạ nhiệt trong thời gian sau đó (CPI bình quân cả năm tăng 3,25%). Đáng chú ý, sau 2 tháng đầu năm 2023 ghi nhận CPI bình quân tăng tới 4,6% so với cùng kỳ, lạm phát đã giảm nhiệt nhanh trong tháng 3 và tháng 4 sau đó để về ngưỡng dưới 4% (bình quân 4 tháng đầu năm 2023 tăng 3,84%). Trong khi đó, số liệu tháng 3, tháng 4/2024 và bình quân 3 tháng, 4 tháng đầu năm 2024 như đề cập ở trên cho thấy, CPI chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Như vậy nhìn về xu hướng, rất có thể quy luật CPI hạ nhiệt dần như trong năm 2023 sẽ không lặp lại vì nhiều yếu tố gây áp lực lạm phát đang khác so với năm ngoái.
Thực tế trong “đóng góp” của các nhóm hàng hóa và dịch vụ khiến chỉ số CPI tăng vào tháng 4 vừa qua, những đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước (khiến nhóm giao thông tăng cao nhất) là một trong những yếu tố đẩy CPI tăng mạnh. Điều này phần nào cho thấy những biến động lớn hơn từ bên ngoài - trực tiếp là thị trường dầu mỏ - đã, đang và có thể sẽ tiếp tục ảnh hưởng không thuận đến Việt Nam. Theo bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá - Tổng cục Thống kê, do là nước nhập khẩu nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên biến động của giá hàng hóa trên thế giới (hiện vẫn đang ở mức cao) sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên.
Cùng với đó, giá điện sinh hoạt tăng cũng là yếu tố đẩy nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng, trong khi thời gian điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân đã được rút ngắn từ 6 tháng xuống 3 tháng một lần cũng tiềm ẩn áp lực lớn hơn đến CPI. Các tính toán cho thấy, chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 10% sẽ tác động trực tiếp làm CPI tăng khoảng 0,33%, chưa kể các tác động gián tiếp. Bên cạnh đó, cải cách tiền lương của khu vực Nhà nước và tăng lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp dự kiến được thực hiện từ 1/7/2024 có thể làm gia tăng kỳ vọng lạm phát kéo theo giá các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng lên. Ngoài ra, giá các hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước quản lý có thể tiếp tục tăng theo lộ trình theo hướng tính đúng, tính đủ; việc đẩy mạnh thực hiện các gói kích cầu, mở rộng tín dụng, đẩy mạnh đầu tư công... một mặt giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế nhưng mặt khác có thể tạo sức ép lên mặt bằng giá nếu không được kiểm soát hợp lý.
Cần đảm bảo thông suốt hoạt động cung ứng hàng hóa nhất là đối với các mặt hàng chiến lược |
Không để “góp gió thành bão”
Cho đến thời điểm hiện nay, hầu hết các chuyên gia, tổ chức trong các dự báo đưa ra đều nhận định áp lực lạm phát năm nay lớn hơn và CPI cả năm được dự báo cao hơn năm 2023 dù vẫn trong phạm vi mục tiêu đặt ra. Đơn cử, WB dự báo tăng nhẹ lên 3,5%; HSBC dự báo tăng 3,9%; ADB dự báo tăng 4%; Standard Chartered dự báo tăng 4,3%... “Lạm phát chủ yếu vẫn ổn. Mặc dù vậy, các rủi ro tăng lạm phát vẫn còn đó. Một phần là do lạm phát giá gạo vẫn dao động ở mức hai con số. Điều đó cho thấy tác động của giá gạo thế giới lên giá gạo trong nước ngay cả đối với một nước xuất khẩu gạo như Việt Nam. Trong khi đó, mặc dù lạm phát năng lượng đã thuyên giảm nhưng vẫn cần theo dõi chặt chẽ”, bà Yun Liu, chuyên gia kinh tế phụ trách thị trường ASEAN, Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu HSBC nhận định sau diễn biến quý I vừa qua.
Như đã đề cập ở trên, dù áp lực chung không quá lớn và mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức 4-4,5% năm nay vẫn hoàn toàn khả thi, tuy nhiên khi nhìn vào từng thành tố như vậy, có thể thấy các áp lực gây lạm phát vẫn đang dần tích tụ và gia tăng. Đặt trong bối cảnh bên ngoài có nhiều biến động và bất định hơn hiện nay, những áp lực nhỏ kiểu “góp gió thành bão” như vậy cho thấy vẫn không thể chủ quan với lạm phát. Có lẽ cũng chính vì vậy nên tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2024 mới đây, một trong các thách thức nổi lên được các thành viên Chính phủ nhắc đến là sức ép chỉ đạo điều hành kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Xác định kiểm soát chặt chẽ lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế là một trong các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong báo cáo mới đây đã kiến nghị cần nắm chắc tình hình giá cả, thị trường, phân tích các mặt hàng tăng giá… để có giải pháp điều hành phù hợp kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đã đề ra.
Để kiểm soát lạm phát năm 2024 đạt được mục tiêu, một trong những giải pháp theo bà Nguyễn Thu Oanh là cần đảm bảo thông suốt hoạt động cung ứng, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ, nhất là đối với xăng dầu và các mặt hàng chiến lược có khả năng bị ảnh hưởng từ sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu và xung đột, căng thẳng địa chính trị hiện nay. Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương cần theo dõi sát diễn biến giá cả của các mặt hàng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, thịt lợn, xăng dầu, gas...) để có giải pháp điều hành phù hợp và chủ động chuẩn bị các nguồn hàng nhằm hạn chế tăng giá, nhất là vào dịp cuối năm. Đồng thời, cần có các biện pháp kiểm soát, bình ổn giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tránh để xảy ra hiện tượng tăng giá bất hợp lý, tung tin thất thiệt gây bất ổn thị trường.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm. Thủ tướng lưu ý, không điều hành "giật cục" và chính sách tài khoá phải tích cực hơn; Tăng cường quản lý giá cả, thị trường, có lộ trình phù hợp điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý, các dịch vụ công; Không tăng giá đột ngột, không tăng giá nhiều mặt hàng trong cùng một thời điểm, không tăng giá vào thời điểm tăng lương…