Việt Nam hưởng lợi nhiều nhất từ các khoản đầu tư FDI bởi chiến lược "Trung Quốc + 1"
Dòng vốn FDI đang tăng về chất Dòng vốn FDI Nhật Bản tăng trưởng ấn tượng tại TP.HCM “Rốn” hút dòng vốn FDI, Bắc Giang bứt tốc trở thành “đất lành” của nhà đầu tư bất động sản |
Việt Nam là quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ Cuộc chiến Thương mại Mỹ-Trung |
Việt Nam - điểm đến ưa thích trong Chiếc lược “Trung Quốc + 1”
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung nổ ra vào năm 2018 và kéo dài từ đó đến năm 2022, tỷ trọng xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ giảm khoảng 13 điểm %, từ 69% còn 56% tổng xuất khẩu từ các nước kém phát triển (LDC) ở Châu Á (bao gồm cả Ấn Độ) sang Mỹ.
Việt Nam đã có được khoảng một nửa thị phần xuất khẩu giảm của Trung Quốc, qua đó tăng thị phần xuất khẩu của Việt Nam trong các nước LDC ở Châu Á sang Mỹ từ 6% năm 2018 lên 13% vào năm 2022 .
Theo ông Michael Kokalari - Chuyên gia Kinh tế trưởng của VinaCapital, Việt Nam là quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung bởi ba thế mạnh quan trọng đã thúc đẩy các khoản đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia, từ đó dẫn đến việc xuất khẩu tăng mạnh.
Đầu tiên và quan trọng nhất, mức lương tại các nhà máy ở Việt Nam chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc, trong khi năng suất làm việc của nguồn nhân lực hai quốc gia tương đương nhau, theo các cuộc khảo sát của JETRO và các tổ chức khác. Tiếp theo, Việt Nam có vị trí địa lý gần kề với chuỗi cung ứng ở Châu Á, đặc biệt thuận tiện cho việc sản xuất các sản phẩm công nghệ cao.
Và cuối cùng, Việt Nam được hưởng lợi từ hiện tượng “Friendshoring”, trong đó các công ty đa quốc gia có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào các quốc gia có ít có rủi ro trong việc chịu mức thuế cao đối với hàng xuất khẩu sang Mỹ.
"Sức hấp dẫn của Việt Nam với tư cách là một điểm đến đầu tư “Friendshoring” đã tăng đáng kể trong năm nay sau chuyến thăm Việt Nam của ông Antony Blinken cũng như phái đoàn lớn nhất từ trước đến nay gồm các công ty hàng đầu của Mỹ. Cả hai sự kiện này đều diễn ra sau cuộc điện đàm đầu tiên của Tổng thống Mỹ Joe Biden với ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam", ông Michael Kokalari cho hay.
Ấn Độ chưa phải là mối đe dọa với dòng vốn FDI vào Việt Nam
Thông báo của Apple vào tháng 4 vừa qua về các kế hoạch đầy tham vọng nhằm mở rộng sản xuất iPhone tại Ấn Độ đã dấy lên nhiều tin tức, nhưng điều này cũng nhất quán với các tập đoàn đa quốc gia khác đang đầu tư vào Ấn Độ chủ yếu là sản xuất các sản phẩm dành cho người tiêu dùng tại thị trường nội địa và điều này rất khác so với mục đích đầu tư vào Việt Nam.
Việt Nam đang theo đuổi cái gọi là “Mô hình phát triển Đông Á”, đây cũng là cách tiếp cận mà các nền kinh tế được ví như “Con hổ của Châu Á” đã vận dụng để trở nên giàu có. Chiến lược tăng trưởng kinh tế này tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ và các nước phát triển khác.
Ông Michael Kokalari cho biết, phần lớn các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam đều đang đóng góp vào nỗ lực đó. Gần như tất cả các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam đều nhằm mục đích xuất khẩu, đặc biệt là sang Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (chiếm hơn 1/4 kim ngạch xuất khẩu).
Ngược lại, Ấn Độ đang theo đuổi chiến lược tăng trưởng thị trường nội địa, vì vậy các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước này nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng thay vì coi đó là cơ sở sản xuất để xuất khẩu.
Ví dụ, doanh số bán iPhone của Apple ở Ấn Độ đã bùng nổ trong những năm gần đây, như có thể thấy trong bảng trên, vì vậy Apple đổ tiền vào Ấn Độ để tăng công suất sản xuất iPhone tại đây, vốn không theo kịp nhu cầu nội địa.
Trong số 7 triệu chiếc điện thoại mà công ty bán ra tại Ấn Độ trong năm ngoái, chỉ có 6,5 triệu chiếc được sản xuất trong nước, còn lại vẫn phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu. Điều này lý giải động lực của Apple đầu tư vào Ấn Độ là để đáp ứng nhu cầu nội địa đang tăng cao.
Thuế tối thiểu toàn cầu không làm giảm dòng vốn FDI vào Việt Nam
Các công ty FDI đầu tư vào Việt Nam thường được hưởng thuế suất ưu đãi, có thể bao gồm mức 0% trong những năm đầu hoạt động, sau đó tăng dần lên mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% trong một khoảng thời gian có thể lên đến 10 năm.
Năm 2021, hơn 100 quốc gia (bao gồm cả Việt Nam) đã đồng ý với đề xuất của OECD về việc áp dụng thuế tối thiểu doanh nghiệp toàn cầu (GMT) 15% từ năm 2023 đối với những doanh nghiệp có thu nhập hợp nhất trên 850 triệu USD. Việc thực hiện thỏa thuận này sau đó đã bị trì hoãn đến năm 2024 và vẫn chưa rõ là Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ có tham gia vào kế hoạch này không .
Ông Michael Kokalari cho biết, Việt Nam đang chuẩn bị triển khai cơ chế thuế tối thiểu vào năm tới và khoảng 70 công ty ở Việt Nam có thể bị tăng thuế suất nếu cơ chế thuế mới được áp dụng. Đồng thời, một số thị trường mới nổi trong khu vực được cho là đang nghiên cứu các hỗ trợ thay thế, trong đó một số khoản thu thuế bổ sung sẽ được chuyển vào “quỹ hỗ trợ kinh doanh” để trợ cấp một số chi phí sản xuất của các công ty đó như trợ giá điện, hỗ trợ chi phí xây dựng nhà máy mới... nhằm bù đắp gánh nặng từ việc đóng thuế ở mức cao hơn của các công ty.
Quan trọng hơn, thuế suất thấp không phải là yếu tố quan trọng nhất trong quyết định của công ty về địa điểm đầu tư cho nhà máy mới, theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác. Những yếu tố các yếu tố khác như ổn định chính trị, môi trường kinh doanh thuận lợi, lực lượng lao động (chất lượng và tiền lương) và cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng hơn.
Theo ông Michael Kokalari, thuế suất tối thiểu toàn cầu khó có khả năng cản trở dòng vốn FDI của Việt Nam do thực tế là các ưu đãi về thuế không phải là điểm thu hút chính để thành lập nhà máy ở Việt Nam. Hơn nữa, khả năng Việt Nam sẽ có những giải pháp thay thế cho thuế suất tối thiểu toàn cầu khi cơ chế này được triển khai.
FDI là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng nhất của Việt Nam trong thập kỷ qua. Việt Nam tăng trưởng vượt trội so với các nước trong khu vực về thu hút vốn đầu tư nước ngoài kể từ khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nổ ra. VinaCapital không quá lo ngại rằng Ấn Độ sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn FDI vào Việt Nam vì bất kì lý do nào nhưng chủ yếu là vì sự hào hứng đầu tư vào Ấn Độ là để sản xuất cho thị trường nội địa đang phát triển nhanh chóng trong khi Việt Nam được coi là cơ sở sản xuất để xuất khẩu. Tại thời điểm này, Ấn Độ không được coi là điểm đến hấp dẫn để sản xuất hàng xuất khẩu như một phần của chiến lược đầu tư “Trung Quốc + 1” trong khi Việt Nam là lựa chọn ưa thích của hầu hết các công ty. |